Trong không khí cởi mở, chỉ yêu cầu “không đả kích riêng ai”, nhiều ý kiến cá nhân đã được đọc, được in, được trao đổi bên lề và tất nhiên, như mọi cuộc tương tự, nhiều ý kiến có thể dễ hoặc khó đồng thuận, thậm chí là bị phản biện. Cũng dễ hiểu, sau 30 năm “Đổi mới”, mà cái gì cũng vẫn “hoàn toàn đồng ý” với nhau, thì “Đổi mới” mà làm gì? Hội thảo-hội nghị để làm gì? Nhưng rõ ràng, so với ba “Hội nghị” trước, sự quyết liệt, đối chọi đã được thay thế bằng sự bình tĩnh, điềm đạm. Tính chuyên môn ở đây, vì thế, cũng đằm hơn, chứ không “bốc lửa” về chính trị-xã hội như mươi mười lăm năm trước. Và, vì lý luận-phê bình đụng đến tất cả các ngành văn học: Thơ, văn xuôi, lý luận-phê bình...; tất cả các “nhánh” văn học: Văn học dịch, văn học thiếu nhi, văn học trẻ...; nên “phổ” đề tài thảo luận là rất rộng. Trong bài viết này, với tư cách một người làm thơ, tôi chỉ “điểm” (và khi thấy cần, thì “bình” đôi câu) một số ý kiến, mà riêng tôi thấy là đáng chú ý về “đổi mới thơ” và “thơ đổi mới”.
Nhà thơ Thanh Thảo-Chủ tịch Hội đồng Thơ, Hội Nhà văn Việt Nam-có những ý kiến “mang tính nguyên tắc”:
- “Sáng tác văn học là sự nghiệp của cá nhân. Mỗi nhà văn, nhà thơ hoàn toàn chịu trách nhiệm về tác phẩm của mình. Vì vậy, sự đổi mới cũng phải bắt đầu từ cá nhân nhà văn hay nhà thơ, chứ không có chuyện “đổi mới theo phong trào”, “vì thơ không bao giờ chấp nhận phong trào, không chấp nhận phiên bản, không chấp nhận cả sự ồn ào, thiếu tinh chất”.
- “Đổi mới văn học, không đơn thuần (là) đổi mới đề tài hay quan điểm chính trị”.
- “Thơ chỉ là thơ. Nó khắc nghiệt tới mức có vẻ như không quan tâm gì tới số phận của nhà thơ, mà chỉ lạnh lùng xét thơ của họ: Còn hay mất? Thế thôi. Vì thế, với thơ, phải hết sức bình tĩnh. Mọi sự sốt ruột đều vô ích. Đổi mới không phải là sốt ruột. Nhất là với thơ”.
Và từ những “nguyên tắc” ấy, nhà thơ Thanh Thảo nhận xét về thơ của lớp nhà thơ trẻ sau “Đổi mới”:
- “Họ bắt đầu đề tài thời cuộc từ tâm trạng cá nhân. Đó là điều khác biệt với nhiều (chứ không phải là tất cả) nhà thơ lớp trước họ. Thơ họ không còn là thơ tuyên truyền, kể cả tuyên truyền bảo vệ môi trường, mà nó là thơ tâm trạng. Có thể tâm trạng trước thời cuộc, có thể tâm trạng trước tình yêu hay sự thất vọng. Có thể tâm trạng trước một cái cây vừa bị đốn chặt ở Hà Nội hay tâm trạng về những con cá chết tại Vũng Áng, Hà Tĩnh. Nó gay gắt hơn, nhọn sắc hơn thơ của các nhà thơ trước “Đổi mới”. Điều đó có thể không mới với thơ thế giới, nhưng với thơ Việt Nam, tôi nghĩ, như thế cũng là đổi mới... Đó là điều tự nhiên, không có đáng buồn hay đáng vui..., đổi mới văn học là nhu cầu tự thân. Có điều, văn học chỉ chấp nhận và dung hợp các tài năng, còn thì mọi sự như Nguyễn Du từng nói: “Mua vui cũng được một vài trống canh”.
- “Đổi mới một số bài thơ, một số bút ký, một số truyện ngắn thì chưa phải là đổi mới văn học. Đó là một cuộc đổi mới không viết hoa (đổi mới văn học) nhưng lại cần rất nhiều thời gian, cần trải nghiệm, cần tích chứa, cần va chạm, cần cả đổ vỡ, để có thể ra đời những tác phẩm văn học. Và, cũng rất cần không khí chính trị-xã hội, cần sự chấp nhận ở mức độ nào đó, cần cả những điều kiện vật chất cũng ở mức độ nào đó, để có thể ra đời tác phẩm. Với thơ, có lẽ không cần nhiều thứ đến như vậy, nhưng vẫn cần, kể cả cần những rào cản (vì rất nhiều nhà văn, nhà thơ, chỉ vì dám liên tiếp “vượt qua các rào cản” mà tác phẩm trở thành kinh điển)”.
Nghĩa là, thơ nói riêng và văn học nói chung, cũng muốn có thêm các điều kiện bên ngoài thuận lợi hơn, nhưng tưởng như nghịch lý mà lại hợp lý là, chúng cần cả những điều kiện bên ngoài không thuận lợi! Suy ra rằng, với “thơ phong trào” thì nhất định phải có ngoại cảnh thuận lợi, còn thơ “tinh chất”, thơ của các tài năng lớn, thì không. Những nhà thơ đích thực tự mình quyết định chất lượng thơ của mình. Thành hoặc bại là ở chính họ. Họ không đổ thừa cho ngoại cảnh.
Rất phải! Trước kia thì bảo rằng, thơ chưa hay vì chưa có “Đổi mới”, chưa được “cởi trói”. Nay, “Đổi mới” và “cởi trói” đã được 30 tuổi rồi, vẫn chủ yếu là “Mua vui cũng được một vài trống canh”, thì biết nói sao? Đổ cho ngoại cảnh, dứt khoát không phải là cách hành xử của các nhà thơ đích thực, của các tài năng lớn. Vả lại, đổi mới hay chưa đổi mới được thơ mà cùng chỉ đổ cho ngoại cảnh, thì nào có khác gì nhau!
Nhà thơ Y Phương-Phó chủ tịch Hội đồng Thơ, Hội Nhà văn Việt Nam- “bắt mạch” bệnh thiếu thơ “đỉnh cao” 30 năm qua:
- “Không ít người cầm bút bị ảnh hưởng, thậm chí có phần “nhiễm” thói quen “văn nghệ quần chúng” và từ đó sinh ra thói lười biếng lao động sáng tạo, lười biếng tư duy nghệ thuật; thiếu tôn trọng bạn đọc và chính bản thân mình, có cái thói quen dễ dãi “cờ đèn kèn trống”; chỉ xảo ngôn, hoạt khẩu một cách vô hồn, nhạt nhẽo. Vì thế, tình trạng bạn đọc thờ ơ, ngoảnh mặt, lạnh nhạt, vô cảm... với thơ xuất hiện là điều không thể tránh khỏi”.
- “Đội ngũ những người làm báo văn nghệ (hay báo có trang văn nghệ) trong phạm vi cả nước, không phải ai cũng có khả năng đọc hoặc có sự tinh nhạy trong việc cảm thụ nghệ thuật thơ... (và do đó) những ấn phẩm “dưới thơ” vẫn “xuất xưởng” và thậm chí còn được coi là “hàng hóa đặc biệt”!
- “Thêm nữa, cơ chế tự trang trải đã buộc (các nhà xuất bản) phải nới lỏng tiêu chí thẩm mỹ, hạ thấp giá trị nghệ thuật... Vì thế, có hiện tượng nhận bản thảo vô tội vạ, thiếu chọn lọc..., có người gọi đây là thời kỳ thoái trào trong công tác xuất bản, dẫn đến tình trạng náo loạn (lạm phát?) thơ nghiệp dư dài dài...”.
- Chấm và trao giải thưởng thơ thì, “Người đọc và người viết đều biết giá trị thực của nó (tác phẩm đoạt giải)...".
Nhưng cuối cùng, ông lại viết: “Khó vậy đấy. Không phải cứ rót thật nhiều tiền là có tác phẩm lớn. Không phải cứ có tự do tuyệt đối là xuất hiện tác phẩm hay. Cũng không phải vì nhà thơ xa rời cuộc sống nhân quần mà tác phẩm viết ra hời hợt v.v. và v.v.. Phải chăng, chúng ta chưa xuất hiện các tài năng lớn?”.
Vâng! Sửa chữa những lỗi của các nhà xuất bản, của báo chí văn nghệ, của việc chấm và trao giải hay “thói quen cờ đèn kèn trống” nghiệp dư, tuy khó, nhưng các cơ quan hành chính (trong và ngoài Hội Nhà văn) cũng có thể làm được, song kết quả cũng sẽ chỉ là làm “bớt” hoặc cùng lắm là “hết”, thơ nghiệp dư thôi, chứ tài năng, nhất là những tài năng lớn, thì lấy đâu ra? Thì đào tạo làm sao? Từ thượng cổ đến giờ, có ai xúm vào mà bồi dưỡng được một thi sĩ nghiệp dư thành ra tài năng lớn không? Nhưng nhà thơ Y Phương, rõ ràng là, đã chỉ ra một số cách loại bỏ “bớt” những thứ thơ “dưới thơ” thật.
Còn nhiều ý kiến nữa, nhưng về căn bản, ý kiến của hai vị “đứng đầu” ngành Thơ của Hội Nhà văn Việt Nam, có tính đại diện, rất đáng để mọi người cùng suy nghĩ và cùng bình tĩnh chờ bạn đọc với thời gian tìm ra tài năng lớn cho chúng ta mà thôi.
ĐỖ TRUNG LAI