Ngài cựu đô đốc đến bên giường bệnh. Ông ngồi sát vào người con, bây giờ đang là một bệnh nhân hấp hối trên giường. Trung úy E.Z. nằm im, dường như bất động. Bên cạnh bệnh nhân là một phụ nữ tóc vàng khoảng năm mươi tuổi. Đôi mắt nâu sáng luôn nhìn xuống, buồn đến thắt lòng. Người phụ nữ khẽ đứng dậy, cúi chào ngài cựu đô đốc. Vị tướng ra hiệu cho người phụ nữ ngồi xuống và ý chừng không muốn chị đánh thức bệnh nhân đang nằm trên giường. Ông nhìn lướt một lượt thân hình người con, đôi mắt dừng lại trên khuôn mặt hốc hác đã từ mấy tuần nay chuyển sang màu tái xám. Ông khẽ nuốt tiếng thở dài như cố giấu không biểu lộ trước mặt người phụ nữ tóc vàng, cô con dâu trong gia đình mà ông nhất mực tín trọng. Ngay từ ngày trước, cách đây chừng ba mươi năm, khi con trai ông, Trung úy E.Z. với lá đơn tình nguyện sang vùng đất mà ông là một chỉ huy điều hành, là người có tiếng nói trọng lượng trong cuộc chiến tranh ở đó. Cô con dâu khi ấy đang là sinh viên, mới mười chín tuổi, trẻ trung xinh đẹp nhưng điềm tĩnh lạ thường đã có ý ngăn người thanh niên mình yêu không nên sang đó. Ông tôn trọng suy nghĩ của thuộc cấp, đặc biệt là các con. Sai lầm nhiều khi thật ngớ ngẩn, từ những chi tiết nhỏ mà lẽ ra, với tư cách của người cha, ông đã có thể ngăn chặn. Trung úy E.Z. là một sĩ quan chỉ huy tàu chim ưng, biên đội tàu tác chiến trên các cửa sông vùng đang có chiến sự.
Ông ngồi xuống bên cạnh người con. Mới đó mà đã ba mươi năm. Thời gian trôi vùn vụt, miên man trên những vinh quang, khổ đau và hạnh phúc. Thời gian đối với ông lúc này đây, cái khoảnh khắc mà ông đang phải đối diện sao nó quá nặng nề. Nó còn nặng nề hơn nhiều cái khoảnh khắc ông hạ mệnh lệnh thực hiện chiến dịch Ranch Hand (Khai quang) xuống những khu rừng rậm của xứ nhiệt đới ấy. Lý lẽ của nó thật đơn giản. Càng nhiều những gallon chất hóa học được rải xuống, thì thương vong phía các ông càng giảm thiểu và có thể, cuộc chiến sẽ kết thúc theo một kịch bản viết sẵn. Ông không thể hình dung tại sao, sau cái buổi hai mươi tư chiếc C.123 thực thi mệnh lệnh ấy, đêm xuống, ông lại ngủ được ngon lành. Đó là điều sau này ông mãi mãi nghi ngờ bản thân mình. Thường thì trong lịch sử chiến tranh, người ta sẽ không ngủ được sau khi có những quyết định như thế. Ông đã không đặt mình, không một phút nghĩ đến muông thú, cây cỏ, con người, cho dù là người phía bên kia đang ở dưới cái làn mưa bẩn thỉu ấy. Ông đã không đặt mình là những người lính phe các ông, trong đó có cả con ông, Trung úy E.Z. sẽ tác chiến ở đấy, sẽ nhảy dù xuống đấy, sẽ phải đánh giữ những điểm cao, ăn ở trong hầm hào hàng tuần, hàng tháng, thậm chí lâu hơn nơi những khu rừng mà ông vừa hạ lệnh phun hóa chất xuống.
Bây giờ thì người lính thuộc quyền, đứa con mà vợ ông đẻ ra nằm kia, im lìm, dường như bất động. Trung úy E.Z. chưa bao giờ phàn nàn về cha mình. Là một quân nhân, anh tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh. Khi ấy, thực ra chỉ có một gợn nhỏ. Đó là ánh mắt của người yêu anh, cô sinh viên mà anh vừa quen trong buổi giao lưu giữa nhóm sĩ quan trẻ và sinh viên trường đại học. Vẫn là ánh mắt hơi nhìn xuống, làn mi chớp cong bẽn lẽn có cái gì phảng phất sự bí ẩn phương Đông. Anh biết rằng mình không đến nơi ấy thì tốt hơn, nhưng suy nghĩ chỉ lướt đi rất nhanh rồi mau chóng chìm lấp trong sôi động của đám sĩ quan trẻ sùng sục muốn chứng minh tài cán ở chiến trường. Trung úy E.Z. khe khẽ hé mở cặp mắt đờ đẫn. Khuôn mặt người cha dần dần hiện lên. Người cha nhìn vào cặp mắt đờ đẫn của người con, một chiến binh đã hoàn thành nhiệm vụ trở về. Trái đất này sao mà chật chội, nhỏ bé và cỗi cằn đến vậy. Cứ tưởng mọi trật tự được sắp đặt thống nhất theo một kịch bản. Hóa ra mọi thứ phức tạp hơn nhiều và đến khi ông hiểu được điều giản dị nhất là lẽ sinh tồn một cách cơ học thì điều đó cũng đã tuột khỏi tầm tay của ông. Chính ta là thủ phạm? Liệu có phải là như vậy? Chính ta đã tước giật đi sự sống, không chỉ ở đây, trên chiếc giường có trải ga trắng muốt này, trong căn phòng sang trọng và tĩnh lặng chết người này, mà còn là ở bên kia nửa vòng trái đất, vung vãi trên khắp quả địa cầu, còn di hại đến nhiều đời sau nữa. Những nhát búa cứ gõ đều đặn vào trái tim nhạy cảm của ngài cựu đô đốc.
*****
Đêm đã khuya, chỉ còn lại một mình trong phòng, ngài cựu đô đốc ngồi im lìm như hóa thạch. Chiếc bàn phủ tấm khăn trắng lớn, màu trắng mà ông ưa thích từ nhỏ hôm nay như trắng dợn lên một cách kinh hoàng. Bình hoa giữa bàn, mấy bông hồng vàng đã héo rũ. Mấy ngày nay không ai ngó ngàng đến bình hoa. Mỗi khi người dọn phòng gõ cửa, ông đều ra hiệu để cho ông được yên lặng. Đêm nay đã là đêm thứ ba sau buổi chiều ông đưa tiễn đứa con về với Chúa, ông chỉ muốn được ở một mình. Ông biết phía trước sẽ còn rất nhiều đêm như thế cho đến khi tất cả kết thúc. Trước mặt ông, những dòng chữ cuối cùng của người con hiện lên rõ mồn một.
“... Cha yêu quý, con đã thấy những giọt nước mắt trong đôi mắt cha, khi tuyệt vọng nhìn thần chết đến gần con. Không hiểu sao, những lúc cuối cùng như thế này, trong đầu óc con luôn hiện lên những khu rừng trơ trụi, nơi mặt đất không còn cỏ mọc. Từng chiến hữu của con, phần nhiều đã vĩnh viễn nằm lại nơi ấy bỗng xuất hiện, đi lại, tắm rửa, bơi lội ở những dòng suối, dòng sông và gào thét trong những khu rừng trống trụi ấy. Con biết chắc, đó cũng sẽ là những hình ảnh cuối cùng mãi hằn lên trong trí não con, và có thể, là cả cha nữa. Con biết cha, ở những năm cuối cùng của đời mình, đã dốc sức làm được nhiều điều, chắc là theo ý Chúa. Con yêu cha biết bao, vì cha là người luôn luôn ý thức làm mọi việc có thể để thay đổi tình thế. Cha đã làm cho cuộc chiến cuối cùng của con, cuộc hành trình đi vào cõi chết, trở nên thư thái hơn, nhân đạo hơn.
Con trai yêu của cha.
E.Z.”.
Ngài cựu đô đốc từ từ ngẩng nhìn bình hoa héo rũ với cặp mắt vô hồn. Mặc dù đã biết trước, ông không thể ngờ mọi thứ lại kết thúc nhanh đến thế với con ông. Thằng bé vốn là một người rất lạc quan. Cái cách nó tình nguyện đi vào cuộc chiến cũng như cái cách dứt khoát rời khỏi chiến trường khi hết nhiệm kỳ quân nhân theo luật định đã cho thấy tính can trường và nhất quán. Nó có thể hoàn toàn dựa vào ông để không cần thiết phải mặc áo chiến binh cũng như từ đó mà thăng tiến nhưng nó đã không làm. Sự độc lập suy nghĩ của nó mang đầy đủ nhất những nét cá tính mạnh của ông. Nó chính là bản sao hoàn thiện nhất của ông.
****
Ngài cựu đô đốc dắt thằng bé đến bên bức tường hoa cương đen thẫm. Từ xa, khối đá khổng lồ như một con đập chắn hắt lên trời một vệt thẫm kéo dài. Đi qua cánh rừng nhỏ, qua một công viên, băng qua con đường rộng, người lái xe điều khiển chiếc xe tấp vào bãi đỗ ngay sát chân bức tường. Mới xuống xe, thằng bé đã chỉ trỏ, chừng như lạ lẫm với bức tường khổng lồ mà nó chưa từng gặp. Ngài cựu đô đốc ngước nhìn bức tường. Cặp mắt ông chầm chậm lướt từ trên xuống ngàn vạn dòng chữ lóa nhóa nhảy múa trong ánh nắng buổi sáng. Thằng bé như không để ý gì tới tâm trạng của ông. Nó chạy lăng xăng rồi sán đến bên ông, có ý dò hỏi tại sao ông lại đem nó đến một nơi nhàm chán như thế. Chỉ có độc một bức tường khổng lồ, bên dưới là những bông hoa đã héo. Thi thoảng, còn vương lại vài bông còn tươi, chừng như trước khi mọi người đến đây, ai đó đã đem chúng cẩn thận đặt dưới chân bức tường. Ngài cựu đô đốc đứng bất động hồi lâu, mặc thằng bé lay lay cánh tay ông giục giã. Như hiểu ý ông, người lái xe bước đến, khẽ mỉm cười, nói câu gì đó với thằng bé, dắt nó băng qua con đường tiến vào khu rừng trong công viên. Chỉ còn một mình, ngài cựu đô đốc chậm chạp tiến sát đến bên bức tường, từ từ ngồi xuống.
Ông bỗng nhớ tới cái ngày hạ lệnh thực thi chiến dịch Ranch Hand, thật lạ lùng, ngay trong đêm ấy, những đêm kế tiếp, ông vẫn ngủ ngon lành, vẫn cho rằng công việc đó phải được thực hiện. Không phải sự đổ lỗi vô lối cho chiến tranh mà đó từng là một sự thật. Sự thật bắt nguồn từ tính cách hiếu thắng, hợm hĩnh của kẻ luôn cho mình đúng? Sự thật bắt nguồn từ sự trí trá một cách có hệ thống chỉ để phục vụ lợi ích của một nhóm người? Sự thật bắt nguồn từ những khát thèm ánh hào quang phía trước? Sau bao nhiêu năm, giờ đây, bên bức tường này ông mới thấy, thật rõ, tất cả những nghi vấn trên đều là ngụy biện, đều là sự thiếu hiểu biết căn bản. Nhưng, thật trớ trêu, cái nhóm người thiểu số luôn nắm trong tay quyền lực tối cao đã chỉ mong mỏi điều đó ở những người như ông, khốn nạn thế. Rất có thể, chính họ, cũng phải chịu một sự điều hành còn bẩn thỉu hơn, ma giáo hơn của một nhóm lợi ích nào đó cao hơn. Các chiến hữu ông đã lần lượt ra đi, những người lính của ông, cả con ông, và chắc chắn, cả cháu ông cũng đang đi đến ngày đó. Bức tường im lìm. Hôm nay không có một ngọn gió nhỏ.
Ngài cựu đô đốc uể oải bước vào khu rừng trong công viên. Thằng bé đã nô đùa chán, nó cùng người lái xe, cũng từng là một người lính. Cây thông có ba chạc vươn lên bầu trời giữa bãi cỏ khá trống trải. Một cái cây mọc lên, một con người sinh ra cũng là lẽ thường tình. Điều đó cho ông sự ấm lòng hơn những gì ông phải chứng kiến, rồi phải đau xót nói ra, thậm chí không được nói ra. Ông lặng lẽ đến bên người lái xe và cậu bé. Thằng bé không nhìn ông, nó nhìn khu rừng phía trước, đôi mắt như đón đợi điều gì. Ông lặng lẽ ngồi xuống, lưng dựa vào gốc cây thông ba chạc. Những chiếc lá cây như đang rì rầm điều gì đó với bầu trời, có cả tiếng rễ cây rì rầm trong lòng đất. Những âm thanh gần gũi, song ông không thể lý giải được rõ ràng. Ông thấy mình cỗi cằn và bất lực trước thiên nhiên, cỗi cằn và bất lực trước cây cỏ bình thường.
Ông thốt rùng mình, lảo đảo gục xuống bãi cỏ.
Truyện ngắn PHÙNG VĂN KHAI