Thời kỳ mới của văn học Việt nhanh chóng đạt được thành tựu với đỉnh cao là Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 cho bộ ba tác phẩm nổi tiếng gồm: “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh và “Bến không chồng” của Dương Hướng. Sau thành công vang dội ấy, trong vòng hai, ba thập kỷ tiếp theo, chúng ta được chứng kiến sự xuất hiện của hàng loạt tác phẩm có chất lượng của nhiều thế hệ nhà văn kế tiếp nhau. Thế hệ những cây bút gạo cội thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhưng vẫn tràn đầy sức sống: Hữu Thỉnh, Chu Lai, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo... Thế hệ nhà văn trưởng thành từ thập niên 90 của thế kỷ 20 như: Nguyễn Quang Thiều, Sương Nguyệt Minh, Hồ Anh Thái, Trần Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương… Thế hệ nhà văn "7X", "8X" đầy tài năng và triển vọng như: Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Ngọc Thuần, Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Ngọc Tư, Phong Điệp, Nguyễn Danh Lam… Những tác phẩm của họ đã nâng văn học nước nhà lên một bước mới, được công chúng tiếp nhận, giới nghiên cứu, phê bình đánh giá cao và đã bắt đầu “tiến ra biển lớn”. Tuy nhiên, nhìn chung văn giới nước nhà đều chưa bằng lòng với thực tại, vẫn đau đáu khôn nguôi về một tác phẩm đỉnh cao tầm thế giới.

Thứ nhất, cần kiên nhẫn chờ đợi. Tôi muốn nói đến câu chuyện về ngôn ngữ và hệ hình văn học. Chữ Nôm ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10, nhưng mất đến hơn tám thế kỷ văn học chữ Nôm mới đạt đến độ hoàn thiện và lên đến đỉnh cao thông qua kiệt tác Truyện Kiều (ở đây cũng cần tính tới việc văn học chữ Nôm bị chèn ép khốc liệt bởi văn học chữ Hán). Chữ Quốc ngữ mới được sử dụng rộng rãi trong hơn một thế kỷ nay. Mặc dù đã “tiệm cận” độ hoàn hảo qua ngòi bút của những tác gia tiêu biểu trong thế kỷ 20 như Tản Đà, Tố Hữu, Nguyễn Tuân… nhưng tôi cho rằng tiếng Việt (ở dạng chữ Quốc ngữ) trong tương lai vẫn còn có khả năng vươn đến đẳng cấp “mười phân vẹn mười”. Thứ nữa là câu chuyện về hệ hình văn học. “Truyện Kiều” hoàn toàn nằm trong hệ hình văn học phong kiến đã bén rễ ở nước ta cả ngàn năm. Văn học Quốc ngữ mới hình thành được hơn trăm năm. Vừa bắt đầu hình thành, nền văn học Quốc ngữ non trẻ ấy đã phải đảm nhiệm sứ mệnh cao cả phục vụ cho công cuộc kháng chiến của dân tộc trên mặt trận văn hóa, tư tưởng. Đến khi hoàn thành nhiệm vụ, nó lại phải “vắt chân lên cổ” vừa bổ sung tối đa những thiếu hụt trầm trọng về kiến thức, phương pháp sáng tác… của văn học thế giới trong vòng mấy chục năm cuối thế kỷ 20, vừa phải “đi tắt đón đầu” nhằm theo kịp trào lưu văn học mới trong thời đại internet và toàn cầu hóa. Một khối lượng công việc vừa đồ sộ, vừa phức tạp như vậy đòi hỏi tốn nhiều thời gian. Thời gian để dung nạp và quan trọng hơn cả là để chuyển hóa những điều thu nhận được, kết hợp chúng với vốn tri thức, văn hóa Việt để cho ra những tác phẩm “vừa dân tộc, vừa hiện đại”. Rõ ràng đây không phải công việc có thể hoàn thành trong một sớm một chiều.

Thứ hai, trong ba yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm gồm ngôn ngữ, tính triết học và trí tưởng tượng, có thể khẳng định yếu tố thứ ba là điểm yếu nhất của các nhà văn Việt Nam. Chúng ta thấy rõ tử huyệt này qua các thể loại vốn đòi hỏi trí tưởng tượng cao như kiếm hiệp, trinh thám hay văn học dành cho thiếu nhi của Việt Nam. Tiến sĩ Nguyễn Thụy Anh trong bài viết “Một góc nhìn về văn học thiếu nhi đương đại’ đăng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội số 850 cho biết, trong một số cuộc hội thảo gần đây, các nhà nghiên cứu đề nghị “văn học thiếu nhi nước nhà cần bổ sung mảng giả tưởng, kỳ ảo, phiêu lưu”. Có thể nói cho đến tận thời điểm này, văn học thiếu nhi nói riêng và văn học Việt Nam nói chung chưa xuất hiện những tác phẩm thể hiện trí tưởng tượng tuyệt vời của tác giả như: “Peter Pan”, “Alice ở xứ thần tiên”, “Cái trống thiếc”, “Linh Sơn”… Các nhà văn Việt Nam hay khuyên nhau một cách chân thành rằng phải đi nhiều, trải nghiệm nhiều để tích lũy vốn sống rồi hẵng viết. Điều đó là hoàn toàn đúng, nhưng không phải là con đường duy nhất. Một nhà văn với trí tưởng tượng tuyệt vời vẫn có thể đạt được sự thành công mà không cần đi thực tế nhiều. Có trí tưởng tượng tốt đồng nghĩa với khả năng khái quát vấn đề tốt, biết cách tổ chức cấu thành chi tiết, nội dung tác phẩm tốt. Trong thời đại mạng hóa và ảo hóa ngày nay, trí tưởng tượng lại càng đóng vai trò quan trọng, thậm chí là quyết định đến sự thành công của tác phẩm. Thiết nghĩ, các nhà văn bên cạnh việc đi lấy tư liệu hãy chú ý đến khâu tưởng tượng hơn nữa vì đây là phần do thiên bẩm, phần do rèn luyện mà thành.

Thứ ba, chúng ta cần có một chiến lược PR bài bản, quy mô lớn, liên tục, dài hạn ở cấp quốc gia để giới thiệu và quảng bá những tác giả, tác phẩm tiêu biểu nền văn học nước nhà ra thế giới. Hiện nay, việc dịch các tác phẩm trong nước ra tiếng nước ngoài chủ yếu dựa vào một số trung tâm dịch thuật, những mối quan hệ riêng lẻ của cá nhân các nhà văn theo kiểu "mạnh ai nấy làm" chứ chưa được tổ chức một cách bài bản. Nhà văn Hồng Diệu trong tham luận “Vấn đề gì đặt ra qua ba mươi năm dịch thuật, giới thiệu văn học Việt Nam-Trung Quốc” tại Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ IV do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức trên Tam Đảo tháng 6-2016, đã cung cấp những thông tin rất đáng suy nghĩ. Chẳng hạn như, trong Diễn đàn các nhà văn Trung Quốc, Nam Á, Đông Nam Á tổ chức tại Trung Quốc năm 2015, chỉ có duy nhất nhà văn Trung Quốc Bành Kinh Phong nhắc đến văn học Việt Nam với hai tác phẩm là “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và “Những bức thư từ tuyến đầu Tổ quốc” của nhà văn Anh Đức-những tác phẩm đã xuất bản trên hơn thế kỷ nay. Hay trong cuốn “Đại từ điển văn học nước ngoài thế kỷ 20” (tân biên) có rất nhiều “bất cập… trong việc lựa chọn các tác giả, việc giới thiệu những gì của một tác giả, kể cả chuyện “dịch” tên tác giả… từ đó sẽ thấy nó đưa đến một cái nhìn sai lệch nhiều so với thực tiễn văn học Việt Nam trong ba mươi năm qua nói riêng, trong thế kỷ 20 nói chung”. Tôi tin rằng sự hiểu biết của thế giới về văn học Việt Nam so với các nhà văn Trung Quốc chắc cũng… chẳng khác nhau là bao. Với những hiểu biết như vậy về văn học Việt Nam của thế giới, việc chúng ta hy vọng có một nhà văn đoạt giải Nobel xem ra còn rất xa. 

TÂM ANH