Dưới triền đê là những đốm sáng từ những chiếc đèn lồng đủ màu sắc đang nhảy múa. Cảnh tượng chẳng khác nào trong lễ hội làng. Không phải tiến gần thêm nữa tôi cũng biết đó là lũ trẻ con đang tìm bắt côn trùng trong những bụi cây lúp xúp ngoài triền đê. Cả thảy có tới hai mươi chiếc đèn lồng, đủ màu từ đỏ thẫm tới hồng, tím, vàng, chàm, lam. Mỗi chiếc một màu nhưng cũng có một chiếc đèn ngũ sắc. Trong những chiếc đèn lồng đang rung rinh dưới triền đê, tôi cũng nhận ra một vài chiếc đèn nhỏ màu đỏ vẫn thường bán ở các cửa hàng tạp hóa; nhưng hầu hết là lũ trẻ tự làm. Đó là những chiếc đèn lồng hình vuông, rất đẹp được làm nên bằng tất cả sự cẩn trọng và yêu thương của chúng. Những chiếc đèn lồng đang nhảy nhót ngay trên triền đê chẳng phải là cảnh tượng mà người ta chỉ gặp trong những câu chuyện cổ tích hay sao?
Trước đó, một trong những đứa trẻ này đã nghe tiếng côn trùng hát ca ngoài triền đê vào một tối nào đó. Vậy là tối hôm sau, nó mua một chiếc đèn lồng để đi tìm “giọng ca” du dương đó. Tối hôm sau nữa, nó có thêm một người bạn đồng hành. Thằng bé này không có tiền mua đèn lồng nên đã khoét lỗ trên một chiếc hộp nhỏ bằng bìa carton, dán giấy màu quanh chỗ cắt, gắn nến bên trong; buộc dây vào đó là thành chiếc đèn lồng sắc màu. Cứ thế, sau mỗi tối, số lượng lũ trẻ đi tìm kiếm “giọng ca côn trùng” lại tăng lên: Năm đứa, rồi bảy đứa. Chúng bảo nhau cách dán giấy màu và vẽ hình lên những chiếc đèn lồng tự chế. Những “nghệ sĩ thông thái” nhỏ tuổi còn bảo nhau khoét hình những chiếc lá, hình thoi, hình trái tim quanh hộp bìa carton; mỗi ô đèn lồng được dán một màu với những họa tiết trang trí khác nhau. Những chiếc đèn được mua và làm ban đầu giờ được thay thế bằng những chiếc đèn lồng mới làm khác. Thằng bé đầu tiên đã bỏ chiếc đèn lồng đỏ nó mua đi vì nó thật vô vị, có thể mua được ở bất cửa hàng nào; còn chiếc đèn làm từ hộp bìa carton đầu tiên thì bị thằng bé thứ hai bỏ đi vì nó quá đơn giản. Cứ thế, những chiếc đèn lồng với những họa tiết trang trí của buổi tối hôm trước sẽ không còn làm lũ trẻ hài lòng vào sáng hôm sau nữa. Chúng làm thêm, thay đổi mẫu mã và họa tiết sau mỗi ngày. Chúng làm việc đó bằng cả con tim và niềm đam mê, để rồi mỗi tối, chúng lại bước vào một cuộc săn lùng “giọng ca côn trùng” mới. Giờ thì nhóm đèn lồng đã lên tới hai mươi đứa và những chiếc đèn lồng tuyệt đẹp trước mắt tôi đang nhảy nhót trong một không gian huyền ảo.
Thu hết vào tầm nhìn khung cảnh cổ tích đó, tôi cứ quẩn quanh đi theo lũ trẻ. Trên những chiếc đèn lồng vuông vức không chỉ có những họa tiết cổ điển, hình những bông hoa, chiếc lá mà còn có cả tên của lũ trẻ được khoét, cắt vuông vức. Khác với những mẫu đèn lồng đỏ người ta vẫn thường bán, những chiếc đèn lồng lũ trẻ tự làm có những họa tiết trên nền giấy màu dán trên ô cửa khiến ánh sáng dường như lan tỏa đi từ chính những họa tiết, màu sắc và hình dạng ô cửa đó. Bóng những lùm cây lúp xúp nổi bật trên nền ánh sáng của những chiếc đèn lồng còn lũ trẻ thì liên tục luồn xuống tìm kiếm nơi có tiếng côn trùng đang rỉ rả phát ra một cách đầy phấn khích.
Một thằng bé tách ra khỏi nhóm, chạy tới nhòm vào một bụi cây cách lũ trẻ chừng chục mét và đột nhiên la lên: “Có ai muốn bắt châu chấu không?”
Sáu, bảy đứa khác vội chạy lại: “Có! Cho tớ, cho tớ!”-Lũ trẻ túm lại phía sau lưng thằng bé ban nãy, nhòm vào bụi cây. Gạt nhẹ những cánh tay của đám bạn ra, thằng bé giang hai tay, đứng thẳng như thể canh cho bụi cây có con châu chấu nó vừa phát hiện. Tay phải vung vẩy chiếc đèn lồng, thằng bé lặp lại: “Ai muốn bắt châu chấu nào?”
“Tớ, tớ!”-Bốn, năm đứa nữa tiếp tục chạy tới như thể trên đời này chẳng có thứ côn trùng nào đáng giá hơn một con châu chấu cả. Thằng bé lặp lại lần thứ ba: “Ai muốn bắt châu chấu nào?”
“Có! Cho tớ!”-Một con bé trong bộ ki-mô-nô trắng vừa bước tới phía sau thằng bé lên tiếng. Khẽ nghiêng người, thằng bé nhẹ nhàng cúi về phía trước. Chuyển chiếc đèn lồng sang tay trái, nó với tay phải vào trong bụi cây.
“Một con châu chấu”.
“Đúng thế! Cho tớ nhé!”
Thằng bé vụt đứng thẳng dậy, đưa nhanh nắm tay về phía con bé, như muốn nói: “Đây! Cậu cầm lấy!”. Cô bé treo dây chiếc đèn lồng vào cổ tay, đưa cả hai tay cẩn thận mở từng ngón tay thằng bé. Thằng bé từ từ mở nắm tay; “con châu chấu” đã nằm giữa hai ngón tay con bé.
Mắt con bé vụt sáng khi nhìn thấy con côn trùng màu nâu đậm đang ánh lên dưới ánh đèn: “Ồ, không phải là châu chấu. Nó là một con dế mèn!”
“Một con dế mèn! Một con dế mèn cơ đấy!”-Lũ trẻ đồng thanh kêu lên.
Liếc nhìn thằng bé bằng đôi mắt sáng long lanh, con bé mở chiếc lồng nhỏ đeo bên người, thả con dế vào đó.
“Là một con dế mèn!”
“Ồ, vậy là một con dế mèn!”-Thằng bé thì thầm, đưa chiếc lồng dế lên tận mắt, nhìn vào sâu bên trong. Trong ánh đèn ngũ sắc cũng đang đung đưa ngang mặt, thằng bé ngẩng lên nhìn sâu vào mắt con bé.
Tôi bỗng thấy hơi chút ghen tị và ngượng ngùng với thằng bé. Thật ngờ nghệch làm sao khi tới giờ tôi mới hiểu vì sao thằng bé lại gọi con dế mèn là con châu chấu và cũng chỉ khi con bé lên tiếng nó mới thò tay ra bắt con dế. Tôi lại càng ngạc nhiên hơn khi thấy trên ngực áo con bé là một thứ mà cả thằng bé, con bé và tất cả lũ trẻ đều không nhận ra.
Ánh sáng từ chiếc đèn lồng của thằng bé, thứ ánh sáng xanh như sắc màu cuộc sống, chẳng phải đang rọi lên ngực áo con bé dòng chữ “Phu-di-ô” đó sao? Chính là tên thằng bé trên chiếc đèn lồng đang rọi lên chiếc ki-mô-nô màu trắng của con bé. Còn hơn thế nữa, ánh sáng từ chiếc đèn lồng của con bé, dẫu không quá mạnh, nhưng cũng đủ khiến những ai để ý nhận ra dòng chữ “Ki-y-ô-kô” màu đỏ, thứ sắc màu của đam mê, đang rung rinh trên một phần áo của thằng bé. Đó là thời khắc mà chẳng ai trong hai đứa trẻ hay cả lũ trẻ kia để ý tới.
Ngay cả khi cả hai cùng mãi ghi nhớ rằng Phu-di-ô đã cho Ki-y-ô-kô một con dế mèn và Ki-y-ô-kô đã nhận con dế mèn đó thì ngay cả trong những giấc mơ Phu-di-ô cũng không bao giờ biết rằng tên nó đã in lên ngực áo Ki-y-ô-kô và tên Ki-y-ô-kô cũng in lên áo nó. Cả Ki-y-ô-kô cũng vậy, sẽ không bao giờ biết được rằng tên của hai đứa đã từng in lên áo của nhau trong một trò chơi ánh sáng ngày nào.
Này Phu-di-ô, ngay cả khi đã thành một chàng trai trẻ, hãy cứ tiếp tục mỉm cười trước niềm vui của một cô gái khi cô ấy được nhận một con dế mèn trong khi trước đó chỉ nghĩ rằng mình sẽ có một con châu chấu. Này Phu-di-ô, hãy cứ mỉm cười với tất cả niềm yêu mến trước nỗi buồn của một cô gái khi biết rằng mình chỉ được nhận một con châu chấu trong khi nghĩ rằng mình sẽ có được một con dế mèn. Này Phu-di-ô, ngay cả khi cậu đủ tinh khôn để tự mình tìm kiếm trong đám cây lúp xúp kia thì những chú dế mèn đâu phải lúc nào cũng dễ kiếm tìm đến thế. Có thể trong mắt cậu, Ki-y-ô-kô hết sức đặc biệt, cũng thật khó kiếm tìm như một con dế mèn giữa bầy châu chấu.
Thế nhưng này Phu-di-ô, những khi trái tim cậu trở nên u ám, muộn phiền thì ngay cả một con dế mèn đích thực đối với cậu cũng chẳng hơn gì một con châu chấu. Với cậu khi đó, thế giới này chỉ ngập tràn châu chấu mà thôi. Phu-di-ô à, sẽ đáng tiếc làm sao nếu cậu chẳng ghi nhớ được trò chơi ánh sáng tối nay, khi tên cậu và Ki-y-ô-kô in lên áo nhau bằng thứ ánh sáng của đam mê và cuộc sống.
Hãy cứ mỉm cười và trân trọng những giây phút hạnh phúc; hãy cứ mỉm cười trong lúc khó khăn, bởi khó khăn cũng như những con châu chấu mà hạnh phúc là những chú dế mèn vậy. Hạnh phúc đáng trân trọng và sẽ đọng lại dù ta có để ý hay không; còn nỗi buồn dẫu nhiều rồi cũng sẽ bay đi, như những con châu chấu.
Truyện ngắn của Y-a-su-na-ri Ka-goa-ba-ta (Nhật Bản)
ƯU ĐÀM (dịch)