Giới trẻ dễ bị "ngộ độc" những tác phẩm lệch lạc
Tôi trấn an, tư vấn cho người mẹ trẻ, phải từ tốn và kiên trì giải thích cho con gái rằng, sách này không nên đọc vì không phù hợp với lứa tuổi học trò, với thuần phong mỹ tục Việt Nam. Tiếp theo, tôi hướng dẫn người mẹ trẻ tìm sách hay của các tác giả Việt Nam và thế giới để con gái đọc trong dịp hè như: "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" của Nguyễn Đổng Chi, "Dế Mèn phiêu lưu ký", "Đảo hoang" của Tô Hoài, "Búp sen xanh" của Sơn Tùng, "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi, "Hương rừng Cà Mau" của Sơn Nam, "Robinson Crusoe" của D.Defoe, "Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" của Mark Twain, "Không gia đình" của Hector Malot...
Mới đây, một phụ huynh khác là ông bố cậu học trò lớp 10, giọng lo âu kể với tôi chuyện con trai 16 tuổi dấm dúi đọc sách giữa đêm khuya. Ông bố giật mình khi thấy đó là cuốn "Vòng tay học trò" (viết cách nay đã hơn nửa thế kỷ, xuất bản dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn) của tác giả Nguyễn Thị Hoàng vừa được tái bản (in lần đầu 4.333 cuốn). Người bố tìm tôi chia sẻ với nỗi lo lắng thực sự về việc đọc sách của con cái mình nói riêng, cũng như của lứa tuổi vị thành niên nói chung. Tôi liền cho anh xem tin nhắn của một người bạn (nguyên là giảng viên văn học một trường đại học lớn ở TP Hồ Chí Minh), khi tôi đặt câu hỏi: “Anh nghĩ gì về sự tái xuất của "Vòng tay học trò" vào thời điểm năm 2021?”. Tin nhắn trả lời có nội dung như sau: “Tôi đã tìm đọc cuốn này ngay từ khi mới vô công tác tại TP Hồ Chí Minh năm 1978. Tóm lại: Đề tài câu khách; đánh đúng tâm lý ham thanh chuộng lạ của con người ta nói chung, lớp trẻ nói riêng; lối viết chẻ sợi tóc làm tư tỉ mỉ chuyện bản năng gốc có hấp lực với tuổi mới lớn; nó là thứ "quả cấm" nhưng mời gọi, dễ mê hoặc; nó cổ xúy tinh thần nổi loạn, một món rất hợp thời với tuổi trẻ; không hiểu sao nó lọt lưới, thời bây giờ cởi mở quá chăng?”.
 |
Một số tác phẩm văn học đã giành được các giải thưởng uy tín những năm gần đây.Ảnh: VŨ PHƯỢNG |
Mới đây, trên một tờ báo có đăng bài viết "Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và sự trở lại của văn học đô thị miền Nam", tác giả bài viết nhấn mạnh: “Lần giở cảo thơm...” (tiểu mục 1). Thật sự cách diễn đạt này gây bất ngờ với nhiều người. Bởi khi đọc kiệt tác "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du, thấy câu thứ 7+8: “Cảo thơm lần giở trước đèn/ Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”, liền nghĩ ngay hai chữ “cảo thơm” mà tác giả bài viết hạ bút viết dường như hơi vội vàng và có phần lạm dụng từ ngữ. Tác giả không tiếc lời ca ngợi một tác phẩm đáng lý khi tái bản nhà xuất bản phải cân nhắc kỹ càng: “Vòng tay học trò" nhận được sự ủng hộ của hàng nghìn độc giả ngay từ khi mới xuất hiện trên tạp chí đến khi được in thành sách rồi tái bản liên tục nhiều năm ở miền Nam. Sự hưởng ứng sôi nổi ấy hẳn không phải chỉ bởi nó kể câu chuyện tình đau đớn của tuổi trẻ “yêu người không nên yêu” một cách du dương thành thật, mà còn vì bằng câu chuyện ấy nó đặt ra những vấn đề khác, về những khát khao trong cuộc sống, về những vật lộn tinh thần cá nhân giữa đời sống xã hội bình thường”. Trong trường hợp này, thiết nghĩ, tác giả “vô tình” bỏ quên quan điểm lịch sử-cụ thể khi bình xét tác phẩm (với ý nghĩa là một hiện tượng văn học). "Vòng tay học trò" (lúc đầu được đăng dưới hình thức nhiều kỳ trên Tạp chí Bách khoa năm 1964), được xuất bản thành sách năm 1966 (in lần thứ nhất 5.000 cuốn). Một kiến thức sơ đẳng ai cũng biết, xã hội miền Nam những năm 60 của thế kỷ 20 dưới chế độ ngụy quyền không thể tương thích với xã hội Việt Nam của thế kỷ 21. Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Tinh thần “thống nhất văn hóa để thống nhất lòng người” không có gì là không đúng. Nhưng ở đây dường như có mùi vị của cái gọi là “nhân danh” sự chiêu tuyết, hay như người ta vẫn nói về phương pháp “khảo cổ học văn chương” đang rất thời thượng (!).
Không ít người lập luận về cơ chế thị trường sẽ làm sinh sôi nẩy nở kiểu tác phẩm như chúng tôi vừa dẫn ra phân tích ở trên, tất cả vì lợi nhuận. Nhưng xem ra cái cách gom tất cả những khiếm khuyết trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội rồi “đổ vấy” cho thị trường, là một cách suy diễn thiếu cơ sở khoa học, thiếu thuyết phục.
Đừng cổ xúy, tán dương những tác phẩm "lội ngược dòng"
Nhận thức lại thực tại là một động hướng tinh thần khoa học. Không ai ngăn cản/cấm việc nhà văn, bằng hình tượng văn học, tiến hành nhận thức lại thực tại trên tinh thần biện chứng, xây dựng và theo nguyên tắc của chân-thiện-mỹ. Nhưng nếu viện cớ nhận thức lại thực tại để nhằm “giải thiêng” lịch sử, giải thiêng các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc thì lại là câu chuyện khác, đáng bàn thảo, tranh luận thấu đáo để đi tới chân lý. Thời đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và nguy nan trên đất nước ta, tình nghĩa đồng bào hơn bao giờ hết được cố kết, vun đắp, nhân lên gấp bội nhằm biến “nguy” thành “cơ”, từ đó giúp mỗi cá thể tìm được lối thoát ra khỏi bĩ cực, ngõ hầu tới thái lai. Nhưng thật đáng tiếc, đúng vào lúc nước sôi lửa bỏng, lại xuất hiện một vài tác phẩm “lội ngược dòng”, đã không biết cách chia sẻ, cảm thông với đồng bào, đồng chí, lại còn đổ dầu thêm vào lửa, thông qua ngôn ngữ văn học, biến mảnh đất nơi chính tác giả sinh ra, lớn lên, nơi hàng triệu người dân lành sinh sống, lao động miệt mài thành “Đất mồ côi” (nhan đề một tiểu thuyết của tác giả Cổ Viên). Cũng thật bất ngờ (theo cách đau xót) khi người viết có thể lạnh lùng đến như thế trên từng con chữ khía vào nỗi nhọc nhằn của đồng bào đang gồng mình vượt thiên tai, dịch bệnh và biết bao tai ương của cuộc bể dâu. Có người phụ họa, tán dương coi đó là một “quả bom nguyên tử” với ngành xuất bản nước nhà, với “tương lai của văn học”; không ít người coi đó là điển hình của “văn học chấn thương”, “văn học sám hối”, “văn học phản tư” (!?).
Không thể nói chúng ta không có những sai lầm trong quá khứ. Nhưng không thể nói (bằng hình tượng văn học), chúng ta đã hoàn toàn sai lầm. Trên con đường tiến lên, vấp ngã là chuyện không thể tránh khỏi, với mỗi cá thể cũng như cả cộng đồng. Ở đây là vấn đề cách nhìn/tầm nhìn, là nhiệt hứng sáng tác văn học. Tôi vẫn giữ một kỷ niệm của thời sinh viên năm thứ 3 đại học, ngành văn. Khi được học một chuyên đề báo chí bổ trợ, giảng viên là một nhà báo cự phách, ra một bài tập ngắn, nhưng hóc búa tính điểm hết môn: “Sau cơn mưa đêm, hai bố con đi ra đường. Đến gần sát một vũng nước, người bố cảnh báo cho cậu con trai mới mười tuổi, hãy cẩn thận kẻo sa vào vũng nước bẩn trước mặt trên đường. Thật ngạc nhiên với người bố khi con trai trả lời nhanh gọn: "Bố ơi! Con nhìn thấy những vì sao trong vũng nước này!”. Chỉ có một sinh viên đạt điểm giỏi (5/5) khi tập trung phân tích “cái nhìn”, “tầm nhìn” của chú bé chưa trưởng thành về thân xác nhưng sớm thấu đáo/thấu thị trong cách nhìn sự vật-hướng tới cái đẹp, tới tương lai (xin nói rõ hơn, số sinh viên còn lại chú mục phân tích sự cẩn trọng, sự trải nghiệm, sự chu toàn của người bố với con trai, cũng đúng nhưng chưa hay, theo giảng viên khi trả bài).
Đề cao vai trò, trách nhiệm của những "người gác cổng" tác phẩm văn học
Chúng ta vẫn nói, văn học là “bộ phận tinh túy nhất của văn hóa”. Đó là một sự thật hiển nhiên không cần tranh luận. Nhưng con đường từ lời nói đến việc làm là con đường xa nhất/dài nhất trên hành tinh chúng ta. Thực tế cho thấy, thời gian qua quản lý văn hóa/văn học đã có những “lỗ hổng” đáng tiếc. Ở đây có thể nói thẳng thắn về vấn đề trách nhiệm của cơ quan chức năng (quản lý nhà nước), của những người thực hiện (các cơ sở xuất bản). Không khó nhận ra chúng ta mắc phải lối tư duy cực đoan (tả khuynh/hữu khuynh), cứ như con lắc của đồng hồ đại chạy bằng dây cót. Lúc chặt chẽ thì đến mức khắt khe, lúc cởi mở thì lại quá phóng khoáng. Nên không có gì đáng ngạc nhiên khi trên thị trường sách thời gian qua xuất hiện những "Thời của những tiên tri giả", "Nổi loạn", "Ổ rơm", "Rồng đá", "Dại tình", "Sợi xích", "Một đời giông bão", "Bóng đè", "Lạc giới", "Bóng"... những tác phẩm văn học bắt mắt vì “chui sâu, leo cao” vào bản năng gốc, vào cái gọi là sự nổi loạn, nói ngược; tụng ca tính người mạnh mẽ, lấn át tình người. Những pha giật gân, mùi mẫn (loạn luân, vô luân, dị thường, ác độc...) đã bị lọt lưới kiểm duyệt (biên tập).
Mới đây, trên một website, nhà văn Hoàng Quốc Hải kể câu chuyện về người có trách nhiệm quản lý xuất bản (nguyên Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành Nguyễn Kiểm, nay đã về với “thế giới người hiền”), đã cố gắng đến gần với người sáng tác. Thái độ của ông Cục trưởng lúc đó đã làm thay đổi tình cảm của tác giả những bộ tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như "Tám triều vua Lý", "Bão táp triều Trần". Thực tiễn cho thấy, quản lý văn hóa, văn nghệ, báo chí không đơn thuần chỉ là áp dụng triệt để, quyết liệt các Luật Xuất bản, Luật Báo chí, mà còn cần vận dụng khéo léo “binh pháp lòng người” chiếm được tình cảm của đối tác (nhất là các nhà văn). Mềm mỏng, linh hoạt, nhưng không rời bỏ nguyên tắc là phương pháp làm việc của ông Cục trưởng thời đó, theo lời kể của nhà văn Hoàng Quốc Hải, đáng để chúng ta cùng nhau suy ngẫm.
Để có một thị trường sách văn học đúng nghĩa “sạch, xanh”, cần sự chung tay góp sức, nỗ lực của nhiều ngành sản xuất văn hóa (chúng ta đang nói về “ngành công nghiệp văn hóa”), nhiều tổ chức văn học, mỗi người trân trọng và yêu quý văn học vì nó là “lương tri của thời đại”. Cả xã hội nỗ lực đồng lòng để xây dựng một nền văn học chân chính, trở thành món ăn tinh thần bổ ích cho mỗi người. Suy cho cùng, văn hóa nhà văn là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển bền vững của văn học dân tộc.
THIÊN NHẪN