Trong quá trình tìm lại con đường đi của bản thảo "Nhật ký trong tù", nhà văn Hoàng Quảng Uyên có thêm cơ may gặp gỡ nhiều nhân chứng, nhiều tư liệu đắt giá về Bác Hồ.
Sẵn tâm huyết về đề tài cùng những tư liệu mới đã thôi thúc ông viết thành tiểu thuyết có tên chung "Hồ Chí Minh" (tập 1: "Trông vời cố quốc"; tập 2: "Mặt trời Pác Bó"; tập 3: "Giải phóng") dài 1.700 trang in.
Viết về một hình tượng mang tầm huyền thoại không chỉ của Việt Nam mà còn của cả thế giới là thách thức rất lớn đối với nhà văn. Tác giả đã vượt qua cánh cửa thách thức ấy bằng chìa khóa sinh động hóa hiện thực. Những điều ai cũng đã biết trong lịch sử nhưng đọc vẫn thấy hấp dẫn, cuốn hút. Ngoài nhờ cái duyên trong văn, cơ bản nhất là nhà văn dựng lại được bối cảnh văn hóa. Mà điều này không phải ai cũng làm được. Muốn làm được phải có vốn!
 |
Bìa tác phẩm "Trông vời cố quốc".Ảnh: HÀM ĐAN |
Mở đầu bộ tiểu thuyết là cảnh thầy giáo Nguyễn Tất Thành rời Trường Dục Thanh (Phan Thiết) lên đường vào Sài Gòn, kết lại là cảnh Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại. Khép lại về câu chữ nhưng mạch văn vẫn như đang tuôn trào, một không gian nghệ thuật mới được mở ra như muốn mời gọi bạn đọc cùng tác giả “theo chân Bác” trong những tập tiếp theo. Như vậy, tác phẩm là một cuộc hành trình cùng Bác Hồ hơn 40 năm. Bác là người làm nên lịch sử. Vì vậy, miêu tả quãng đời quan trọng của Bác dứt khoát phải tái hiện lịch sử. Đó là nguyên lý. Vì chỉ có thể xây được cái nền văn hóa lịch sử, mới có thể dựng được tòa nhà cấu trúc nhân vật. Bộ tiểu thuyết đã làm tốt nhiệm vụ ấy.
Những trang đầu là sự gặp gỡ của Nguyễn Tất Thành với người cha Nguyễn Sinh Sắc. Không còn là cuộc đối thoại cha con mà là cuộc đối thoại của lịch sử: “Cụ Sào Nam hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau...”. Cụ Phan Châu Trinh “chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, chẳng khác gì xin giặc rủ lòng thương”. Trước khi gặp cha, Nguyễn Tất Thành khắc ghi lời thầy Lê Văn Miến dạy ở Huế: “Nước mất mà không biết là bất tri, biết mà không cứu nước là bất trung...”. Bây giờ người cha của Nguyễn Tất Thành dạy thêm, cụ thể hơn: “Nước mất thì đi tìm hồn của nước... Muốn đánh Pháp phải hiểu Pháp...”. Đây không chỉ là chi tiết mà là sự cắt nghĩa: Nhờ những người thầy lớn mà Nguyễn Tất Thành có hướng đi đúng! Đây là một bài học: Trong bạt ngàn chi tiết, nhà văn viết về lịch sử chỉ chọn những chi tiết nào nói được nhiều ý nghĩa nhất. Người xưa khái quát “vẽ mây nẩy trăng” không chỉ là nói tả hình tượng này để nảy hình tượng kia mà còn cả cái ý phải để bạn đọc gạt lớp “mây” chi tiết để thấy được “trăng” ý nghĩa đang tỏa sáng!
Một cách làm khoa học, công phu của tác giả là cho các nguồn tài liệu rọi chiếu vào nhau để sinh động hóa một tình tiết đắt giá nhất. Nói thế để khẳng định không có tâm huyết đọc biết bao sách vở, cả sử, cả văn thì không thể tạo dựng được kết cấu của bộ tiểu thuyết này. Thành công rõ nhất của tác phẩm là tạo dựng các cuộc đối thoại với hầu hết nhân vật. Điều ấy cũng phù hợp với cuộc đời cách mạng của Bác, xét kỹ cũng là những cuộc đối thoại văn hóa vĩ đại với cả chủ nghĩa thực dân, đế quốc; với đồng chí, đồng bào, nhằm mục đích cao cả: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi!". Tác giả đã làm chủ mã ngôn ngữ nhân vật chính nên ngôn ngữ đối thoại của Bác Hồ được thể hiện tự nhiên, đúng với tâm trạng, tính cách nhân vật. Bạn đọc sẽ được “quan sát” cuộc đối thoại đầy kịch tính, căng thẳng, hồi hộp trong phiên tòa xử Tống Văn Sơ ở Hồng Công hay những cuộc đối thoại giữa Bác với các đồng chí tranh luận về việc đánh hay không đánh quân Tàu Tưởng. Rồi các cuộc đối thoại giữa Bác với bà con dân tộc thiểu số bằng ngôn ngữ của họ... Qua các cuộc đối thoại này, chân dung, tính cách nhân vật và không gian bối cảnh được biểu hiện rõ hơn, sinh động và cụ thể. Hạn chế của tác phẩm cũng nằm ở chính điểm này. Nhiều chương tác giả cho đối thoại nhiều, nhân vật như bị chìm đi trong dòng thác ngôn ngữ.
Với thế mạnh là người dân tộc Tày (Cao Bằng), nói được tiếng Quảng Đông nên Hoàng Quảng Uyên rất mạnh trong việc tái hiện không gian văn hóa nơi Bác từng sống, hoạt động. Ông sang cả Trung Quốc tìm hiểu tư liệu qua nhân vật có thật từng làm việc với Bác. Ông viết, miêu tả về phong tục, tập quán miền núi có sức sống, rất thật. Thế nên trong 3 tập thì tập 2 trội hơn cả vì chủ yếu là không gian văn hóa miền núi Việt Bắc.
Tiểu thuyết về đề tài lịch sử là sự sáng tạo, hư cấu trên cái nền đã ổn định của sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử. Nhà văn có thể tha hồ bay lượn trong không gian tưởng tượng nhưng phải nhằm mục đích làm sáng tỏ hơn lịch sử, đem đến những cảm hứng, làm giàu thêm vốn thẩm mỹ mới cho bạn đọc. Một điều tối kỵ là làm sai lệch chân dung nhân vật, sai lệch sự kiện. Viết về quá khứ để làm sáng tỏ mục đích nghệ thuật: Độc giả hôm nay nhận rõ thêm chân giá trị của ngày hôm qua để sống sao cho xứng đáng. Con đại bàng tác phẩm về đề tài lịch sử phải luôn được nâng đỡ bởi hai cánh sự thật và thẩm mỹ mà bay vào bầu trời văn hóa đương đại và văn hóa tương lai!
NGUYÊN THANH