Thoát thai từ đời sống thực, văn học thống nhất chứ không đồng nhất với đời sống. Ngoài yêu cầu cao về vốn sống, tài năng, tác giả còn phải đưa ra cái nhìn mới. Cái nhìn ấy thể hiện ở người trần thuật có lời văn lời kể, ở nhân vật qua lối xưng hô, cách sống... mang dấu ấn riêng. Tạo ra được một tác phẩm với một mô hình mới quả không dễ dàng. Mươi năm gần đây liên tiếp có những tiểu thuyết “Lạc giữa cõi người”, “Bạn bè một thuở”, “Cột cờ”, “Chuyện làng”, “Mùa rươi”, gần nhất, Phạm Quang Long có thêm “Chuyện phố” (Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, 2024).
 |
| Bìa cuốn sách. |
Tái hiện cuộc sống của gia đình ông Mưu, dân gốc Hà Nội điển hình, sâu đậm và tập trung hơn cả là sau thời đổi mới (1986). Tài năng trong kinh doanh buôn bán nhưng ông Mưu lại có phần bất lực trước các suy nghĩ, quan niệm và mối quan hệ của các con, dầu chung một nhà song ứng xử mỗi người mỗi khác. Cuộc sống thời kinh tế thị trường như dồn tụ vào không gian ngôi biệt thự rộng hàng nghìn mét vuông ở phố cổ. Có những mánh lới, mánh khóe và cả những cao thượng, vị tha... Đấy là bề nổi. Trước những xung đột mâu thuẫn của các giá trị cũ mới, mạch ngầm văn hóa gia đình vốn chảy từ ngàn đời, theo quy luật, nay bật lên để đấu tranh nhằm tạo ra một sự “cân bằng hóa” đời sống.
Một cấu trúc song trùng xuyên suốt của tiểu thuyết là chuyện về nhân vật Tuấn - vốn là nhà báo, cựu chiến binh bước vào thời đổi mới, vẫn một bản lĩnh xưa, quyết liệt, trung thực, thẳng thắn. Chuyện về thầy giáo Lăng, giảng viên đại học, đầy đam mê nghiên cứu, mềm mại trong ứng xử, tinh tế trong ăn nói. Hai dòng chảy nhân vật này mang quan niệm, cái nhìn riêng đều “tụ” vào không gian văn hóa gia đình ông Mưu - vốn đã bao quan niệm xung đột, trái chiều. Thế là có biết bao tiếng nói vừa ánh xạ vào nhau, vừa khúc xạ qua nhau, tạo ra các tranh biện, cật vấn có sức hút mời gọi đối thoại với độc giả. Sức hấp dẫn của tiểu thuyết này là ở nghệ thuật tạo ra các đối thoại và mời gọi đối thoại.
Nhìn từ không gian ngôi nhà cổ, bạn đọc lại như thấy bóng dáng của thời “thứ nhất Kinh kỳ” xa xưa hắt bóng vào từng chi tiết cổ kính, lại tưởng tượng ra con người ngày ấy nhẹ nhàng, chỉn chu và cũng mực thước, vuông vắn như những ô cửa giống nhau, và cũng đã “rêu phong”... Xét theo thời gian, con người ấy chủ yếu nằm vắt vào đầu thời đổi mới sống động, ngổn ngang với những định hướng mới, những kế hoạch mưu sinh trước đó chưa từng có... Tiểu thuyết khép lại bằng cảnh ông Mưu không chia nhà, vườn mà chia vàng cho 4 con, mỗi người 100 cây. Đây là mã văn hóa tiểu thuyết đáng chú ý, như muốn nói: Vàng rất quý nhưng chỉ là phương tiện trao đổi, nên dễ dàng chia được. Còn nhà, vườn là vô giá. Vì đó là bản sắc, là truyền thống phải cùng nhau thờ phụng, gìn giữ.
Tác giả Phạm Quang Long có nhiều thuận lợi khi viết về “chuyện phố”, là nhà khoa học nghiên cứu văn chương (phó giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành Lý luận văn học), là cán bộ quản lý (nguyên Phó giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP Hà Nội), từ vốn hiểu biết về làng quê (Thái Bình cũ), từ vốn văn hóa ngoài nước (làm nghiên cứu sinh, thực tập, trao đổi, tham quan), có thời gian ở “phố” đủ dài (50 năm), nên “bật” ra được nhiều nét mới, ngộ nghĩnh, thú vị; nhiều kiến giải mới sâu sắc, tinh tế.
Tác phẩm “Chuyện phố” thể hiện năng lực khái quát cao khi không gian chuyện kể là sự dồn nén bức tranh thu nhỏ đa sắc của xã hội Việt Nam thời hiện đại với bao số phận khác nhau nhưng vẫn toát lên vẻ tươi sáng ở phía chân trời ngày mai. Hình tượng người trần thuật lấp ló sau câu chữ vừa như ngạc nhiên, bất ngờ trước một phát hiện vừa như tinh quái, lọc lõi như đã biết hết mọi ngóc ngách của đời, của người. Điều này tạo cho tiểu thuyết có một giọng điệu hiếm ở ngày hôm nay: Giọng ỡm ờ nước đôi, như đùa, như thật.