Hiện nay, nghề nuôi hàu biển đang ngày càng khẳng định vị thế, vừa mang lại giá trị kinh tế cao, vừa góp phần cải thiện môi trường sinh thái ven bờ. Tuy nhiên, để nghề này phát triển bền vững, người nuôi không chỉ cần vốn và mặt nước, mà còn cần một nền tảng kiến thức khoa học.

Với hơn 20 năm nghiên cứu, đi thực địa khắp các vùng biển trong nước, Thạc sĩ Cao Văn Nguyện cùng các cộng sự đã cho ra đời cuốn sách “Nguồn lợi hàu biển Việt Nam - Sinh thái và kỹ thuật nuôi nâng cao”, một công trình khoa học được ví như “cẩm nang” dành cho ngư dân, doanh nghiệp và người nuôi hàu biển. Đây là cuốn sách trong Bộ sách Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam do Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) phát hành.

Thạc sĩ Cao Văn Nguyện trao đổi về cuốn sách “Nguồn lợi hàu biển Việt Nam - Sinh thái và kỹ thuật nuôi nâng cao”.

Cuốn sách là kết tinh của một hành trình dài, bắt đầu từ năm 2001 khi tác giả tham gia chương trình nghiên cứu trọng điểm về nguồn lợi thủy sản biển. Khi đó, ông vừa làm thư ký đề tài, vừa trực tiếp thu thập mẫu, khảo sát các bãi hàu tự nhiên. Từ những chuyến đi đầu tiên ở Khánh Hòa, Quảng Ninh, Hải Phòng, đến các dự án ở Bến Tre, Trà Vinh, Cần Giờ, Cà Mau, hàng loạt công trình nghiên cứu được triển khai, công bố trên các tạp chí trong nước và quốc tế, về đặc điểm sinh học và kỹ thuật nuôi hàu Thái Bình Dương. Những dữ liệu, hình ảnh, kết quả thực nghiệm ấy đã trở thành nền tảng để hình thành một bộ tài liệu vừa chuẩn mực khoa học, vừa giàu tính ứng dụng.

Sách gồm 7 chương, giới thiệu toàn diện về các loài hàu ở Việt Nam và thế giới, từ phân loại, hình thái, vùng phân bố, giá trị sinh thái, kinh tế đến quy trình sản xuất giống, nuôi thương phẩm, nuôi vỗ béo và xử lý sau thu hoạch. Điểm mới nổi bật là lần đầu tiên, các loài hàu trong nước được chuẩn hóa tên gọi theo danh pháp quốc tế, kèm hình ảnh minh họa rõ ràng, khắc phục tình trạng nhầm lẫn và trùng lặp lâu nay. Nếu trước đây, thống kê cho thấy Việt Nam có 29 - 31 loài nhưng phần lớn không có hình ảnh chứng thực, thì nay độc giả có thể nhận diện cụ thể từng loài, tránh tình trạng gọi sai tên khoa học hoặc sử dụng từ đồng nghĩa không chính xác.

Hàu đá môi đen. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Thạc sĩ Cao Văn Nguyện dành nhiều phân tích cho 5 loài hàu nuôi phổ biến ở Việt Nam như: Hàu cửa sông, hàu Hồng Kông, hàu trắng, hàu sữa và hàu Thái Bình Dương. Mỗi loài được trình bày rõ đặc điểm sinh học, điều kiện môi trường, khả năng thích nghi và giá trị thương mại. Những tranh luận về việc gọi “hàu Thái Bình Dương” hay “hàu Bồ Đào Nha” cũng được làm rõ bằng dẫn chứng phân tích hình thái và di truyền, khuyến nghị thống nhất tên gọi hàu Thái Bình Dương để thuận lợi trong thương mại và truy xuất nguồn gốc. Đây là vấn đề tưởng chừng nhỏ, nhưng có ý nghĩa quan trọng khi đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế.

Không chỉ dừng ở lý thuyết, cuốn sách đi sâu vào các mô hình nuôi hàu nâng cao. Qua trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, Thạc sĩ Cao Văn Nguyện chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tiễn từ các địa phương. Ông đã trực tiếp tập huấn cho ngư dân vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long, giúp họ áp dụng mô hình nuôi hai giai đoạn: Từ lấy giống, ương đạt kích cỡ 2-3cm rồi mới đưa ra nuôi thương phẩm. Cách làm này rút ngắn 3 - 5 tháng thời gian nuôi, giảm tỷ lệ hao hụt, đồng thời nâng chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, việc thay giá bám xi măng bằng vỏ hàu tái sử dụng không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn thân thiện môi trường, hướng tới mục tiêu nuôi bền vững.

 
Hàu hương dùng làm thực phẩm và mỹ nghệ. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Một nội dung được tác giả đề cập sâu là kỹ thuật nuôi vỗ béo, giai đoạn quyết định giá trị thương phẩm và khả năng đáp ứng tiêu chuẩn thị trường cao cấp. Thực nghiệm cho thấy, khi nuôi vỗ béo bằng vi tảo, chỉ sau 10 - 20 ngày, hàu đạt độ béo tối ưu, tăng giá trị dinh dưỡng và loại bỏ tạp chất. Nhờ áp dụng quy trình này, giá hàu thương phẩm ở Bến Tre đã tăng từ 20 - 22 nghìn đồng/kg lên 35 - 40 nghìn đồng/kg; nghêu cũng từ hơn 30 nghìn đồng/kg lên 60 - 65 nghìn đồng/kg. Ở Cần Giờ, Trà Vinh, Cà Mau, mô hình này giúp ngư dân chủ động thời điểm thu hoạch, giảm rủi ro do thời tiết hoặc dịch bệnh.

Sách cũng giới thiệu sáng kiến sản xuất giống trong ao diện tích lớn bằng cách giữ lại 5 - 10% hàu bố mẹ để tạo bãi đẻ tự nhiên. Phương pháp này giúp con non nở và phát triển ngay trong ao nuôi, người dân thu giống trực tiếp, chủ động nguồn cung mà không phải đầu tư hệ thống sản xuất giống nhân tạo tốn kém. Đây là hướng đi khả thi, nhất là với ngư dân chưa có điều kiện tiếp cận công nghệ cao.

Không chỉ là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế, hàu còn đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái biển. Mỗi cá thể hàu lọc hàng chục lít nước mỗi ngày, loại bỏ tạp chất và các hạt lơ lửng, cải thiện chất lượng nước, giảm các chỉ số ô nhiễm. Bãi hàu tự nhiên còn là nơi cư trú của nhiều loài thủy sinh, góp phần bảo vệ đường bờ và duy trì đa dạng sinh học. Phát triển nghề nuôi hàu, vì thế, đồng nghĩa với việc tăng cường “lá chắn sinh thái” cho vùng ven biển.

 Thạc sĩ Cao Văn Nguyện giới thiệu cách ương hàu giống trong ao. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Mục tiêu của tác giả khi xuất bản cuốn sách không chỉ dừng ở việc cung cấp kiến thức, mà còn hướng tới phổ biến rộng rãi các quy trình kỹ thuật tiên tiến, giúp ngư dân nâng cao thu nhập và bảo vệ môi trường. Thạc sĩ Cao Văn Nguyện cho biết: “Khi mọi người biết cách làm giàu giá trị dinh dưỡng của hàu, họ sẽ thay đổi phương thức nuôi, rút ngắn thời gian, tránh rủi ro và tăng hiệu quả kinh tế. Điều quan trọng là kỹ thuật phải dễ áp dụng, chi phí hợp lý, để bà con ở bất cứ vùng biển nào cũng có thể làm được”.

Với sự kết hợp giữa nền tảng khoa học vững chắc, dữ liệu thực nghiệm phong phú và kinh nghiệm triển khai thực tế, cuốn sách “Nguồn lợi hàu biển Việt Nam - Sinh thái và kỹ thuật nuôi nâng cao” không chỉ mở ra cơ hội phát triển nghề nuôi hàu bền vững, mà còn nâng cao vị thế sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế, góp phần bảo vệ môi trường biển.

Bài, ảnh: VŨ DUY HIỂN

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.