Tri Tân Tạp chí (1941-1945) xuất bản thứ ba hằng tuần tại Hà Nội, khuôn khổ 20x26cm, dung lượng thường là 24 trang. Tồn tại trong gần 5 năm, tạp chí đã quy tụ 300 tác giả với khoảng 1500 mục bài. Chính tôn chỉ mục đích hướng về cội nguồn lịch sử dân tộc đã thu hút sự tham gia của đông đảo học giả, nhà báo, nhà văn cả nước, như: Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Hoàng Thúc Trâm, Trịnh Như Tấu, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Huy Tưởng, Chu Thiên, Lê Thanh, Trần Huy Bá, Trúc Khê, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Thiếu Sơn...
 |
| Bìa cuốn sách. |
Trong nhiều thể loại đăng trên tạp chí, đặc sắc hơn cả là du ký, ghi lại chi tiết đời sống văn hóa, công phu điền dã dân tộc học, khảo cứu phong tục, đi thăm di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, sinh thái, mỹ thuật, điều tra xã hội học, du ngoạn bằng đường không, đường bộ, tàu hỏa, tàu thủy... Tập sách tập hợp 44 bài viết là hành trình khám phá địa chí, phong tục, ghi nhận sự trải nghiệm các chứng tích, địa chỉ lịch sử, văn hóa, giúp người đọc sống lại, như hòa mình vào đời sống xã hội của đất nước trước khi nước nhà giành được độc lập.
Trở lại bối cảnh cách đây hơn 70 năm, khi khoa học công nghệ, phương tiện truyền thông còn rất hạn chế, người đọc chắc hẳn sẽ thấy thú vị, ngạc thiên với du ký “Một ngày ở xứ Chàm” của Tam Lang. Người Chăm vốn theo mẫu hệ nên công to việc nhỏ người đàn bà gánh hết, khác với dân tộc khác theo phụ hệ. Hay như tác giả Vân Thạch tham quan chùa Bà Đanh (huyện Kim Bảng, Hà Nam) nổi tiếng thành câu cửa miệng “Vắng như chùa Bà Đanh”, được lý giải là do chùa tọa lạc nơi vắng vẻ, thú dữ hay qua lại. Cũng ở chùa này, tác giả phê phán việc trùng tu chùa theo lối hiện đại lố lăng. Hóa ra việc trùng tu, bảo tồn lại “làm mới” di tích không phải là chuyện thời nay mới có.
Trong cuốn sách có nhiều trang du ký ghi chép sâu sắc của các tác giả đã đi và đến tận miền đất xa xôi, kể lại nhiều câu chuyện kỳ lạ, thú vị, như: “Sau tám năm trở lại thăm Lào Cai”, “Từ Hà Nội đến hồ Ba Bể” (Trịnh Như Tấu), “Ban Mê Thuột”, “Hai tháng ở gò Óc Eo hay là câu chuyện đi đào vàng” (Trần Huy Bá), “Bốn năm trên đảo Cát Bà” (Vân Đài)... Ngoài ra, còn có những bài viết dạng ghi chép, hồi ức... khá gần gũi với du ký cũng được những người biên soạn tập hợp, như: “Hà Nội ngày nay không như Hà Nội dưới mắt học giả Trương Vĩnh Ký” (Nguyễn Tường Phượng), “Năm ấy, ở Pháp...” (Lê Văn Ngôn), “Hát dưới trăng thu” (Hoàng Thúc Trâm), “Tục hát trống quân giữa giai Xuân Cầu, gái Khúc Lộng” (Anh Ngẫu)...
Các tác phẩm được viết từ hơn 70 năm trước nhưng vẫn có giá trị tham khảo hữu ích cho những người viết, người làm công tác nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn hôm nay; góp phần khẳng định vị thế, sức sống của thể tài du ký hòa quyện giữa báo chí và văn chương.
HÀM ĐAN