Địa điểm cụ Phạm Phú Bằng muốn chúng tôi đến trong chuyến hành hương là chùa Hồ Thiên, tọa lạc trên núi Phật Sơn thuộc dãy Yên Tử, thuộc vòng cung Đông Triều. Nhiệm vụ cụ Bằng giao cho chúng tôi là mang kinh Phật, lương thực, thực phẩm cung tiến nhà chùa và “đi để biết đây biết đó”. Nghe như cụ nói, thầy trụ trì chùa Hồ Thiên sống chủ yếu nhờ vào đồ ăn, thức uống của thợ đi rừng.
 |
| Nhà báo Phạm Phú Bằng. Ảnh: NGỌC MAI |
15 năm trước, đường lên chùa Hồ Thiên quả là thử thách lòng người. Từ chân núi Phật Sơn, chúng tôi băng rừng hơn 3 tiếng đồng hồ vẫn chưa tới nơi. Tôi thì khá mệt dù trên lưng chỉ là bao nấm hương, mộc nhĩ. Những bạn đồng hành thì khác, họ gùi mấy chục bộ kinh, rồi cả gạo, lạc, đậu xanh nặng hàng chục ký... một lòng hướng về ngôi chùa cổ được xây dựng gần 700 năm trước.
Trên đường đi, tôi mệt quá nằm lăn ra nghỉ. Cụ Phạm Phú Bằng thong dong bước tới, động viên: “Cậu gắng dậy, tôi kể cho chuyện này”. Tôi bật dậy, trộm nghĩ được nghe kể về những tháng năm cụ Bằng cầm súng chiến đấu, làm báo ở chiến trường thì hết ý. Nhưng không, cụ kể về hành trình... theo dõi thầy Chí Thông, trụ trì ở chùa Hồ Thiên. “Theo dõi ạ?”, tôi khá ngạc nhiên hỏi lại cụ Bằng. “Đúng rồi. Tôi phải kín đáo theo dõi thầy Chí Thông, để xem có phải là bậc chân tu không. Tôi theo dõi gần một tuần, dám chắc là ổn thì gặp gỡ nói chuyện, để xem thầy cần gì thì kêu gọi mọi người cung tiến, giúp đỡ nhà chùa. Chẳng ngờ thầy Chí Thông lại bảo: “Thôi, kể ra là có duyên. Hay cụ ở lại đây tu luôn cùng tôi”.
Xuân Kỷ Sửu 2009, đường lên chùa Hồ Thiên đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh. Cách chùa chừng 500m là cả một rừng tre kỳ vĩ xanh miên man. Bộ phim “Thập diện mai phục” của điện ảnh Trung Hoa năm 2004 có cảnh thi triển võ công trong rừng tre quả là ấn tượng, nhưng so với rừng tre ở gần chùa Hồ Thiên thì vẫn không thể bằng.
Đường lên chùa Hồ Thiên năm đó còn chưa rõ dấu chân người. Chúng tôi người cầm dao phạt cây, người bẻ cành mở lối lên chùa. Đi bộ đúng 5 tiếng đồng hồ thì nghe thấy tiếng chó sủa. Mừng quá! Nào ngờ, hai con chó thấy tiếng người cũng vui mừng không kém, chạy đoạn xa xuống vẫy tít đuôi. Để lên chùa, chúng tôi leo dốc thêm 30 phút nữa.
Cảnh chùa đập vào mắt khiến tôi đến giờ chẳng thể nào quên. Chùa như cây thế giữa đại ngàn núi rừng. Cảnh vật quanh chùa đẹp mê hồn, với đào, mai, thông già... dễ đến hàng trăm tuổi.
Thầy Chí Thông gặp cụ Phạm Phú Bằng thì mừng lắm. Biết cả đoàn sẽ ở lại đây nghỉ qua đêm, thầy khá lo lắng vì nhà chùa không có chỗ nghỉ cho đông người. Thôi tính sau, cứ phải kiếm cái ăn trưa đã. Chúng tôi cũng chủ quan, nghĩ nhà chùa có sẵn rau nên chỉ mang theo gạo, xì dầu, lạc... Về sau, để kiếm được bắp cải luộc ăn là cả một hành trình 3 tiếng cả đi lẫn về. Đến bữa tối, là lạc rang, cơm trắng, bắp cải luộc, rong biển mà bầu không khí thật ấm áp, chân tình. Trong giờ giảng kinh, thầy Chí Thông nói rất hay, dễ hiểu ngay cả với tôi, vốn ngu ngơ về Phật pháp.
Tối hôm đó thật là vui. Thế nào mà buổi chiều hôm ấy lại có một đoàn học sinh lên chùa, xin nghỉ lại qua đêm để sáng mai vãn cảnh. Vậy là đoàn học sinh ngủ một lán, đoàn chúng tôi ngủ một lán. Duy có cụ Bằng ngủ cùng phòng với thầy trụ trì để tiếp tục đàm đạo. Nói lán cho sang chứ tứ bề thông thoáng, chỉ có tấm cót ép ở trên che sương. Theo Đại Nam nhất thống chí thì: Chùa Hồ Thiên ở xã Phù Ninh, huyện Đông Triều, dựng từ triều Trần, lâu ngày đổ nát nhưng vẫn còn dấu vết cũ.
Sáng hôm sau có thêm hoa đào, hoa mai, trà vàng nở đón khách, khiến lòng người thêm vui. Cụ Bằng và thầy Chí Thông vẫn đàm đạo đến là tâm đắc. Cụ Bằng kể với mọi người: “Năm xưa, khi tôi lẩn trong rừng, bí mật theo dõi, thấy thầy ngày chỉ ăn một bữa, chủ yếu nhờ vào cơm, gạo của dân đi rừng để lại. Nơi rừng hoang phế tích, con người với thiên nhiên hòa làm một nên có tối, rắn cuộn tròn ngủ cạnh thầy Chí Thông”. Thực lòng chuyện này người khác kể thì tôi bán tín bán nghi nhưng một lời cụ Bằng nói ra, không tin sao được.
Thời điểm năm 2009, chùa Hồ Thiên có khoảng hai chục công trình kiến trúc. Hiện vật ở chùa chủ yếu bằng chất liệu đá xanh. Tiêu biểu nhất vẫn là hệ thống bia đá khắc chữ Hán. Đặc biệt là tấm bia trùng tu năm 1736, mặt tiền khắc bài văn bia trùng tu, hai bên cạnh có đôi câu đối khắc nổi. Đế bia cao 0,4m, rộng 1,35m, chạm khắc tinh xảo.
Tấm bia này là một tác phẩm nghệ thuật với nội dung ca ngợi cảnh đẹp chùa Hồ Thiên và công đức của Chúa Trịnh khi trùng tu ngôi chùa. Cuối bài văn bia có khắc bài thơ “Ngự chế Hồ Thiên tự thi” của Chúa Trịnh Cương. Chùa được xây dựng từ đời Trần, có tài liệu ghi là giảng đường của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Đến thời kỳ ngài Pháp Loa, là đệ tử-tổ thứ hai của hệ phái Trúc Lâm, Yên Tử thì chùa trở thành thiền viện...
Sau khi vãn cảnh chùa, tôi đi xuống trong lúc thầy Chí Thông đang dùng bữa (trong ngày, thầy chỉ ăn một lưng cơm nhỏ vào đúng 10 giờ sáng). Cụ Phạm Phú Bằng dẫn tôi ra gốc đào cạnh chỗ treo chuông, kể chuyện: Năm 2001, thầy Chí Thông cùng phật tử lên thăm chùa Hồ Thiên, lão cư sĩ ở chùa mời thầy ở lại. Năm 2002, thầy Chí Thông quyết định lên chùa Hồ Thiên tu, khi đó chùa vẫn là phế tích.
Thầy Chí Thông ngủ nền đất, ăn cơm với rau rừng qua ngày. Quanh năm suốt tháng gần như không có phật tử lên thăm chùa. Thi thoảng có người đi rừng tìm phong lan, gỗ, mật ong để lại cho thầy nắm muối, chút gạo. Phải đến năm 2006, một số người có tâm ở Hà Nội biết chuyện mới lên chùa dâng tiền công đức để thầy Chí Thông xây mấy gian nhà nhỏ thờ cúng, làm chỗ sinh hoạt và tiếp đón khách phương xa.
Cụ Bằng không nói ra nhưng thầy Chí Thông có nói cho tôi hay: “Số tiền công đức quý giá vào năm 2006 chính là nhờ cụ Phạm Phú Bằng huy động một số phật tử cung tiến”.
Cũng lâu rồi, tôi chưa có dịp trở lại chùa Hồ Thiên. Cảnh vật chắc vẫn huyền ảo như xưa. Có điều này thì tôi tin, hẳn là mấy gốc trà vàng phía bên hông chùa vẫn mong ngóng những người khách năm xưa, trong đó có ông cụ hiền từ như ông Bụt tên Phạm Phú Bằng đến từ Báo Quân đội nhân dân.
Đêm nay, trà vàng lại nở hoa nhớ người xưa.
ĐÌNH HÙNG
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.