Năm 2019, tròn 50 cái Tết Bác Hồ đi xa, tròn 50 năm toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta thực hiện Di chúc của Người. Đã 50 cái Tết qua, chúng ta không còn được nghe Bác đọc thơ chúc Tết; không được đón Bác về thăm, nói chuyện và trồng cây.

Đón Tết Kỷ Hợi năm nay, chúng ta càng nhớ về cái Tết cuối cùng của Bác-Tết Kỷ Dậu năm 1969. Năm đó, Bác 79 tuổi. Có lẽ Người đã linh cảm “sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin...”, nên trong Di chúc năm 1969, Bác viết: “Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các anh hùng, dũng sĩ miền Nam ra thăm miền Bắc, ngày 28-2-1969. Ảnh tư liệu

Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?

Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác…”.

Trong Di chúc, Bác căn dặn nhiều điều, nhưng “trước hết nói về Đảng…”, Bác viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”; phải đoàn kết thống nhất và thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, lấy tự phê bình và phê bình làm chính, nhưng phải thương yêu lẫn nhau. Với đảng viên và thanh niên, thì Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Cuối cùng, Bác nói đến việc riêng. Bác nhắc cần tránh lãng phí thời gian và tiền bạc của nhân dân. Điều Bác mong muốn là: “Toàn đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.

Theo đồng chí Vũ Kỳ, nguyên thư ký của Bác, từ ngày 10 đến 20-5-1965, Bác Hồ bắt đầu viết Di chúc để lại cho muôn đời sau. Sau khi soạn thảo Di chúc, Bác giao cho đồng chí Vũ Kỳ và dặn: “Vào dịp này sang năm thì đưa lại cho Bác”. Và cứ đến dịp chuẩn bị sinh nhật Bác, vào ngày 10-5 hằng năm, đồng chí Vũ Kỳ lại đặt bản thảo Di chúc lên bàn làm việc của Bác; sau đó Bác lại giao lại cho đồng chí Vũ Kỳ. Năm 1966, 1967 không thấy Bác sửa. Năm 1968, Bác đọc và sửa khá nhiều. Năm 1969, Bác sửa thêm một số chỗ, như: “Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ”.

Vào những ngày Tết cổ truyền của dân tộc, Bác thường dành thời gian làm thơ chúc Tết, đi thăm, trồng cây và chúc Tết đồng bào, chiến sĩ. Thơ chúc Tết của Bác Hồ không chỉ là mừng Đảng, mừng xuân mới, mà là dự báo lịch sử, cùng những chỉ đạo chiến lược của cách mạng, được truyền đạt đến đồng bào, chiến sĩ cả nước. Năm 1969, bài thơ chúc Tết của Bác với âm hưởng hào hùng, với chỉ đạo chiến lược rõ ràng, với quyết tâm cao: Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/ Vì độc lập, vì tự do/ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/ Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào/ Bắc-Nam sum họp, Xuân nào vui hơn. 

“Bắc-Nam sum họp…” là khát vọng lớn lao của đồng bào, đồng chí cả nước; là tâm nguyện luôn bừng cháy, thao thức trong trái tim, khối óc của Người. Cũng theo đồng chí Vũ Kỳ, vào Tết Kỷ Dậu năm 1969, Bác còn có bài thơ gửi sang Paris chúc mừng đồng chí Xuân Thủy và đoàn đại biểu Việt Nam đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: Xuân Gà túc tác đến nơi/ Gửi người thân thiết mấy lời mừng xuân/ Gà Xuân túc tác rạng đông/ Đưa tin thắng lợi cờ hồng bay cao.     

Với Bác, mùa xuân có ý nghĩa đặc biệt đối với đất nước, dân tộc và mỗi người. Thường trước Tết 3 tháng, Bác đã nhắc các cơ quan, các ngành, các địa phương phải chuẩn bị chu đáo cho nhân dân đón Tết; nhắc văn phòng chuẩn bị thiếp “Chúc mừng năm mới” để Bác kịp gửi đến đồng bào; còn Bác tự tìm ý thơ cho bài thơ mừng năm mới. Những lời thơ chúc Tết của Bác thật dung dị nhưng sâu sắc, âm vang hồn sông núi, có ý nghĩa như lời hiệu triệu, lời hịch giục giã quân và dân cả nước tiến lên giành thắng lợi mới trong năm mới.

Từ khi trở về nước cho đến khi Bác ra đi vào cõi vĩnh hằng, hầu như năm nào Bác cũng đi thăm, chúc Tết đồng bào, chiến sĩ. Xuất phát từ tình thương bao la của Bác, nhiều cuộc gặp gỡ giữa Bác với người lao động, đặc biệt là người nghèo, người khuyết tật trong dịp Tết đến, xuân về diễn ra hết sức xúc động và ấm áp tình người. Đêm Giao thừa Tết Bính Thân năm 1956, Bác đến thăm, chúc Tết anh em Trường Thương binh hỏng mắt Hà Nội; Tết Đinh Dậu năm 1957, lúc Giao thừa, Bác cùng đón Tết với các gia đình công nhân Nhà máy Điện Yên Phụ. Bác đến thăm, chúc Tết chị Nguyễn Thị Tín, một lao động nghèo ở phố Hàng Chĩnh, Hà Nội trong đêm 30 Tết Canh Tý năm 1960...

Tết Kỷ Dậu năm 1969, có lẽ linh cảm đây là cái Tết cuối cùng của mình, nên dù sức khỏe giảm sút nhiều, Bác vẫn đặt chương trình đi thăm, chúc Tết nhiều nơi và trồng cây lưu niệm. Sáng mồng Một Tết Kỷ Dậu năm 1969, Bác đến sân bay Bạch Mai thăm Quân chủng Phòng không-Không quân, rồi thăm hỏi, nói chuyện với bà con nhân dân và trồng cây đa tại thôn Yên Bồ, xã Vật Lại, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội), theo phong tục, tập quán tốt đẹp trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc, mà cách đó 10 năm, ngày 28-11-1959, Bác đã viết bài phát động Phong trào "Tết trồng cây”. Đồng chí Vũ Kỳ kể lại, trồng cây xong thì đã gần trưa, đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Vật Lại xin phép được mời Bác ăn bữa cơm Tết cùng địa phương. Bác nói Bác cảm ơn, vì những người giúp việc đã chuẩn bị cơm cho Bác rồi và Bác mời các đồng chí lãnh đạo xã sang ăn cơm cùng Bác. Không ngờ, đó là lần cuối cùng và Vật Lại là địa phương cuối cùng được Bác về thăm, chúc Tết, nói chuyện và trồng cây lưu niệm; cũng là bữa cơm ngày Tết cuối cùng của Bác khi về địa phương. Tết năm đó, Bác còn thưởng huy hiệu của Người tặng các cụ già có thành tích xuất sắc trong phong trào trồng cây gây rừng.

Cây đa Bác trồng tròn 50 năm trước, nay vẫn xanh tươi, vươn cao, tỏa bóng mát, như biểu tượng về tình thương bao la của Người.

NGUYỄN VĂN CÔNG

Giám đốc Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch