“Hương giang ơi... dòng sông êm/ Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình” (Tố Hữu). Đúng là trước chuyến đi trở lại Huế sau 16 năm, có nhiều ngày tôi đã mơ-tự tình cùng Huế, cùng Hương giang-dòng sông nên thơ nhất nhì đất nước.

Cô nhà đò còn khá trẻ nhưng đã gắn bó với công việc chở du khách gần 10 năm. Cũng như nhiều người phụ nữ khác tôi từng gặp trên đất cố đô, ở cô toát lên vẻ khéo đảm, mặn mà, dịu dàng rất Huế. Dưới vành nón lá là đôi mắt nhung huyền với hàng mi xanh rợp. Tôi hỏi cô về bến thuyền Tòa Khâm mà con đò của cô vừa chở tôi rời đi. Cô bảo nó có tên vậy bởi gần Tòa Khâm sứ Pháp ngày trước, địa điểm ấy nay là Trường Đại học Sư phạm Huế. Xưa kia, bến thuyền vốn là bến đò Hàng Me, vì trên bờ sông trồng nhiều me. Mùa xuân, mùa hạ me xôn xao, reo vui lá quả trong gió sông. Trên đò, một sạp hàng nhỏ bày bán những món xinh xinh, được làm từ bàn tay tài hoa của những người thợ thủ công nội, ngoại thành Huế: Kẹp tóc, vòng tay, quạt giấy, búp bê gỗ, mấy con thú đất nung, những con chuồn chuồn tre đủ sắc màu... Tôi cầm một con chuồn chuồn màu lửa, khẽ đặt miệng nó trên đầu ngón tay trỏ, toàn thân nó giữ được thăng bằng, hơi động đậy cái đuôi. Tôi như thấy con chuồn chuồn lửa vụt bay, đưa tôi trở lại ngày thơ bé chạy rông quanh khu vườn xanh mướt, bắt chuồn chuồn cắn rốn để tập bơi trên con sông ven làng.

 Một góc nhà vườn An Hiên. Ảnh: NGUYỄN PHÚ

Thiên nhiên là vậy, luôn hào phóng ban tặng cho con người những sản vật, và con người lại cắt tỉa, mài giũa những sản vật ấy để trao tặng cho nhau, mang đến thế giới trong trẻo, thần tiên cho con trẻ hoặc nhắc nhớ ký ức với những người mà tuổi thơ đã ở miền xa lơ lắc. Ngay chính dòng Hương này cũng là một quà tặng vô giá mà bà mẹ thiên nhiên đã ưu ái ban phát cho Huế. Không có sông Hương, Huế sẽ không là Huế nữa, như Trịnh Công Sơn từng nói: “Nếu một mai tỉnh giấc, sông Hương biến mất, liệu Huế có còn thơ mộng nữa chăng?”. Khi tôi vục tay xuống dòng nước, cô nhà đò cho đò chạy chậm lại. Nước dùng dằng như không chảy, ùa vào lòng tay tôi mát lành. Hương giang cũng có khi ạt ào, giận dỗi nhưng có lẽ nét dịu dàng mang vẻ trễ nải, lơ đãng mới là căn tính của nó, từ ngàn năm trước và cho tới ngàn năm sau.          

Đến năm Ất Tỵ này đã có 8 cây cầu bắc qua dòng Hương. Cây cầu mới nhất được hoàn thiện cuối tháng Ba năm nay mang tên Nguyễn Hoàng, vị chúa tiên mở cõi cho người Việt tiến về phương Nam. Mỗi cây cầu đều gắn với những câu chuyện thú vị, ví như cây cầu Bạch Hổ, cô nhà đò nói với tôi là ông nội cô kể rằng xưa kia có trận lũ kéo về xác một ông bạch hổ lớn nên khi cầu sắt được xây dựng lấy tên là cầu Bạch Hổ.

Đò đến Xuân Hòa (xã Hương Long), tôi cập bờ để tìm tới nhà vườn An Hiên. Theo nhiều người, đến Huế mà chưa đến nhà vườn An Hiên thì chưa thể hiểu về văn hóa Huế, về sự đan bện giữa văn hóa cung đình với văn hóa dân gian trong kiến trúc nhà vườn, trong nết ăn, nết ở. Nhà vườn ngụ tại số 58 đường Nguyễn Phúc Nguyên. Đón tôi là chiếc cổng mái vòm được xây dựng bằng gạch, vôi vữa, hai cánh cổng gỗ chạm khắc tinh xảo, tất cả đều toát lên vẻ hài hòa, thanh thoát, rêu phong lưu dấu thăng trầm thời gian. Bước qua cổng, một lối đi khá dài phía trên là các tàng cây lưu niên đan kín như những bàn tay yêu thương chở che, gọi mời. Hình như đó là giống mận xứ Bắc và tôi tưởng tượng mùa xuân lối đi này sẽ là một lối hoa ngần trắng, khiến ai bước vào cũng phải thảng thốt. Một bức bình phong chữ “Thọ”, hồ nước trồng hoa súng đỏ, rồi đến ngôi nhà rường khiêm nhường giữa thanh yên cây trái.

Tôi vào bên trong ngôi nhà cũng là lúc đoàn khách rời đi. Trần Thị Minh Thư, em gái hướng dẫn viên duyên dáng vẫn nhiệt tình giới thiệu cho tôi về lịch sử ngôi nhà. Lời em như một thước phim quay chậm, để tôi được chứng kiến bao gia đình, bao cuộc đời với thăng trầm di biến nơi ngôi nhà này. Điều làm tôi xúc động hơn cả, đấy là tấm lòng, tình yêu của người chủ hiện tại, giám đốc một tập đoàn lớn, một người ở xa Huế, mãi ngoài Hà Nội nhưng rất yêu văn hóa Huế, yêu cổ vật. Ông đã chi một khoản tài chính khá lớn để sở hữu, gìn giữ ngôi nhà rường chuẩn mực nhất xứ sở này. Càng trân quý hơn khi ông lặn lộn tìm kiếm, cho hồi hương được hầu hết các cổ vật của An Hiên từng bị bán đi, hoặc bị đánh cắp. Các cổ vật có niên đại gần nhất khoảng 150 năm, thậm chí có cổ vật đã hơn 450 năm. Kiến trúc ngôi nhà còn giữ được như hiện tại là một sự kỳ công, bởi xây một căn nhà gỗ thì đơn giản nhưng để trùng tu một căn nhà gỗ là cực kỳ khó khăn. Cả khu vườn gần 7.000 mét vuông với 300 gốc cây (50 giống) quý hiếm từ khắp ba miền Bắc-Trung-Nam về tụ họp, sau nhiều năm bị lãng quên, thiếu bàn tay người chăm sóc nay đã hồi sinh trở lại. Cây cỏ không phụ công người, nhà vườn An Hiên giờ đây như một bách thảo thu nhỏ, để bốn mùa hoa thơm trái ngọt dâng đầy. Người ta bảo, sống giữa thiên nhiên con người sẽ tĩnh tại, tâm hồn được thanh lọc, trở nên thuần hậu. Ngồi thật lâu giữa khu vườn xanh ngời, hương nhài, hương ngọc lan thoang thoảng, tôi cứ nghĩ, loài người chúng ta suy cho cùng, cũng chỉ là những đứa con của bà mẹ trái đất, là bạn bè với muôn loài. Vậy tại sao, rất nhiều nơi chúng ta không ứng xử với thiên nhiên như cách người Huế đã và đang làm trong những khuôn viên nhà vườn? Chúng ta ứng xử với thiên nhiên như thế nào thì thiên nhiên sẽ đáp lại chúng ta như vậy.

Tôi trở lại đò, ngược dòng lên chùa Thiên Mụ. Chùa nằm trên đồi Hà Khê, dân gian còn gọi là Thiên Mụ Sơn. Những tán thông cao xanh ngắt, lá vi vút reo đùa cùng gió làm cho cảnh chùa như cõi mộng, xứ mơ. Theo các nguồn sử liệu còn ghi chép, một lần cùng binh lính thị sát hai bên bờ sông Hương, chúa Nguyễn Hoàng đã rất thích thú với ngọn đồi nhô lên bên dòng nước xanh trong, êm đềm, tựa dáng một con rồng quay đầu nhìn lại. Khi ấy, dân trong vùng vẫn lưu truyền câu chuyện hằng đêm có bà lão áo đỏ quần xanh, gương mặt thần tiên thoát tục thường đi lên đồi, bà nói với dân rằng: Nơi đây sẽ có một vị chân đế lập chùa để trấn giữ long mạch. Chúa nghe vậy, cho là điềm lành, thần tiên chỉ lối nên đã cho dựng chùa vào năm 1601, lấy tên là “Thiên Mụ Tự”-chùa Bà Mụ nhà trời. Kế tiếp nghiệp chúa, các đời vua Nguyễn sau này đều cho tôn tạo, xây dựng thêm các công trình trong khuôn viên chùa. Chùa Thiên Mụ trở thành một trong hai mươi thắng cảnh đẹp nhất đất Thần kinh.

Khuôn viên và các công trình trong chùa gợi lên vẻ thanh tịnh, nhẹ nhõm mà không quá u trầm. Dấu ấn kiến trúc nhà rường truyền thống và kiến trúc cung đình ở ngôi chính điện càng làm cho công trình thêm uy nghiêm, tráng lệ. Phía sau cùng trong khuôn viên chùa là một đồi thông xanh biếc. Có lẽ dưới tầng tầng tán thông ken dày này đã có những vị hòa thượng ngồi thiền, niệm Phật, tu tập, vững tâm hơn trên con đường giải thoát. Và có chú tiểu nào đó, ngày mới ở chùa, phút giây nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ xóm làng chợt đến, chú đã ra đồi thông này khóc thầm. Tán thông xòe ô che mát cho thân chú, gió thông rủ rỉ như lời mẹ hiền rót vào tâm chú, thế là chú gạt nước mắt, lững thững trở lại trai phòng mài mực, chép kinh. Hơn 400 năm qua, chùa Thiên Mụ là trung tâm Phật giáo lớn nhất xứ Huế. Ánh sáng Phật pháp từ ngôi cổ tự đã tỏa bóng thiện lành vào thân tâm bao lớp người Huế, từ ông hoàng bà chúa đến những lương dân, để từ ấy tạo nên một tính cách Huế, một tâm hồn Huế không lẫn với bất cứ nơi đâu.

Nắng lên cao, tôi xuống đò. Trước khi con đò quay trở lại bến Tòa Khâm, tôi chắp tay chiêm bái ngôi cổ tự. Giữa mơn man gió nước, tôi chợt thấy trái tim mình như một tiểu hồng chung, ngân lên những thanh âm êm đềm, trong trẻo lạ thường.

Tùy bút của QUANG MINH

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.