QĐND - Thế kỷ XX đầy biến động là thế kỷ mà trong lĩnh vực nghiên cứu văn học sản sinh ra nhiều trường phái hơn bất cứ thời đại nào khác. Thường thì mỗi một nhà nghiên cứu đi sâu vào một trường phái nhất định; nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ như nhà nghiên cứu văn học người Pháp Rô-lăng Bát (Roland Barthes, 1915-1980) - người luôn “xê dịch” từ trường phái này sang trường phái khác và để lại nhiều kết quả nghiên cứu có ảnh hưởng to lớn. Vì thế, ngay từ lúc sinh thời, Rô-lăng Bát đã được xem là nhà nghiên cứu văn học kiệt xuất không chỉ của nước Pháp mà của nhân loại.

R.Bát sinh ngày 12-11-1915 tại cảng biển Cherbourg, vùng Tây Bắc nước Pháp. Trước khi trở thành một nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng, R.Bát đã trải qua những năm tháng không mấy vui vẻ: Mồ côi cha khi mới một tuổi, lớn lên thì bị bệnh lao phổi khiến ông không thể dự thi vào trường đại học tinh hoa bậc nhất nước Pháp là Trường Sư phạm cao cấp, thay vào đó là bằng cử nhân khoa văn học cổ điển (năm 1943) Trường Đại học Sorbonne. Nhưng rồi, với nỗ lực trong học thuật, về sau, R.Bát - một con người xuất thân bình dân, vẫn đạt được vị trí đỉnh cao của giới trí thức Pháp khi làm giáo sư giảng về ký hiệu học văn học tại Học viện Pháp quốc (Collège de France). 

Trong cái rủi không hanh thông sớm trên con đường học thuật, R.Bát lại có cái may riêng! Chính nhờ việc đứng ngoài những trường phái học thuật thịnh hành đương thời, R.Bát có điều kiện tự đào tạo, dần hình thành con đường học thuật không giống ai. Tác phẩm đầu tay của R.Bát là “Độ không của lối viết” (1953) trình bày lịch sử văn phong như là một lịch sử ký hiệu trong văn học. Ông tin tưởng thông qua việc nghiên cứu lối viết có thể hiểu được sự tiến hóa tâm thức nhà văn và rộng ra là của cả một dân tộc. Ở tác phẩm đầu tay này, R.Bát thể hiện tư duy độc đáo, có tính khái quát cao, theo hơi hướng chủ nghĩa hình thức; nhưng đáng tiếc, R.Bát chưa triệt để nghiên cứu cấu trúc luận để có thể triển khai ý tưởng của mình một cách sâu sắc hơn. 

R.Bát rất khác với những nhà nghiên cứu văn học là ông không chỉ tập trung vào nghiên cứu văn bản văn chương mà rất chú ý giải mã các vấn đề xã hội đương đại. Hàng loạt tác phẩm nổi tiếng của ông như “Những huyền thoại” (1957), “Hệ thống mốt” (1967), “Vương quốc ký hiệu” (1970)... đi ra ngoài phạm vi nghiên cứu ký hiệu trong văn học mà nghiên cứu ký hiệu xã hội khiến ông gần gũi và nổi tiếng trong đại chúng. Nhưng khi khoa học nhân văn càng xích lại gần nhau theo hướng nghiên cứu liên ngành, những phân tích ký hiệu xã hội như là những “bài tập” của R.Bát đào sâu nghiên cứu ký hiệu học trong văn học. Như trong cuốn "Những huyền thoại”, R.Bát đưa ra mô hình lý thuyết ký hiệu học sau khi nghiên cứu những bài giảng về ngôn ngữ của “ông tổ” ngành ngôn ngữ học hiện đại người Thụy Sĩ Phéc-đi-năng đờ Xốt-xuy (1857-1913) và nhà ngôn ngữ học Đan Mạch Lu-i Giem-xláp (1899-1965). R.Bát khẳng định mọi thứ đều có thể trở thành ký hiệu bởi sự tương tác “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt”, nảy sinh ra trở thành "cái biểu đạt" mới. Cứ như thế, ký hiệu không bao giờ ngừng sinh sôi!

Là người tiên phong phê bình ký hiệu học, với các tác phẩm như: “Yếu tố ký hiệu học” (1964), “Phê bình và sự thật” (1966), “S/Z” (1970), “Lạc thú của văn bản” (1973), “Thi pháp truyện kể” (1977)..., R.Bát được xem là nhà phê bình cách tân hàng đầu trong thế kỷ XX. Khác với lối phê bình tầm chương trích cú trước đó, R.Bát xem tác phẩm văn chương là một công trình ngôn ngữ với những lối kiến tạo hình thành mô hình kiến trúc tác phẩm khác nhau. Nhiệm vụ của nhà phê bình không phải trình bày lại những ý tưởng, quan niệm của nhà văn thể hiện trong tác phẩm mà là tìm ra cấu trúc tác phẩm để tái tạo lại cách nhà văn xây dựng tác phẩm như thế nào. Trong văn học hiện đại, người ta quan tâm nhà văn viết như thế nào chứ không phải viết cái gì; tương ứng như vậy, R.Bát cùng với những người theo chủ nghĩa cấu trúc đã đặt phê bình văn học vào nhiệm vụ lý giải cách nhà văn đã viết như thế nào thông qua một văn bản phê bình độc lập. Phê bình văn học của R.Bát được xem là một thứ “siêu phê bình” khi chất liệu chính là tác phẩm văn học để sáng tạo một tác phẩm phê bình bình đẳng chứ không “ăn theo” tác phẩm; vì thế, cũng có người gọi lối phê bình văn học của R.Bát là “phê bình sáng tạo”.

Khi sự nghiệp của R.Bát đang ở độ chín, với việc nghiên cứu chủ nghĩa giải cấu trúc, ông qua đời ngày 26-3-1980 bởi tai nạn giao thông để lại nhiều nuối tiếc cho văn giới và người đọc trên khắp thế giới. Ngày nay, di sản của R.Bát vẫn được nhiều người nghiên cứu tiếp tục đào sâu phân tích, xem như là điểm tựa để nhận thức lại vai trò, nhiệm vụ của phê bình khi mà lý thuyết về chủ nghĩa hậu hiện đại đang gặp những bế tắc nhất định.

TRẦN HOÀNG HOÀNG