QĐND - Thế giới ngày càng nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của văn hóa. Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người đặc biệt quan tâm đến văn hóa, và chính đồng chí đã trở thành một nhà văn hóa của dân tộc. Nhân dịp kỷ niệm 108 năm ngày sinh của đồng chí Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1-3-1906/1-3-2014), chúng tôi xin trình bày một phần nhỏ nghiên cứu bước đầu về Phạm Văn Đồng với văn hóa truyền thống.

1. Những phạm vi văn hóa truyền thống (VHTT) được nhấn mạnh

Mấy thập kỷ trước, VHTT được nhận thức hẹp, thường chỉ gồm văn học và nghệ thuật. Phạm Văn Đồng đã khẳng định thêm quan niệm mở rộng VHTT ra nhiều phạm vi mới: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, hương ước, môi trường sống của VHTT; mặt khác, bên cạnh văn học bác học, ông đề cao đúng mực văn học dân gian

Tín ngưỡng thờ tổ tiên

Tín ngưỡng thờ cúng ít được các đồng chí cấp cao nói đến, trong số đó chắc có vị giữ thái độ “kính nhi viễn chi” (Khổng Tử). Phạm Văn Đồng đã chỉ ra ý nghĩa sâu xa của việc thờ cúng gia tiên tiền tổ của người Việt và coi sinh hoạt này gần gũi với tôn giáo:

“Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam ta không có tôn giáo theo nghĩa thông thường của các nước khác. Còn nói tôn giáo là thờ cúng, thì mọi người đều thờ cúng ông bà, mỗi họ đều thờ cúng tổ tiên, làng thì thờ cúng thành hoàng và các bậc anh hùng cứu nước, các tổ phụ ngành nghề, các danh nhân văn hóa. Từ góc độ văn hóa, tôi thấy đây là một đặc trưng đáng trọng của con người Việt Nam, ở chỗ nó là sự tưởng nhớ những người có công trong việc tạo lập cuộc sống ngày nay cho mọi gia đình và làng xóm”. (1)

Hương ước

Chúng ta có một kho tàng luật lệ “tiền” Nhà nước, đó là hương ước (ở các dân tộc thiểu số là luật tục). Đặc điểm cơ bản của nó là tính dân chủ sơ khai. Một số người nhấn mạnh mặt xấu của lệ làng, cho là vô tổ chức, gây rối. Phạm Văn Đồng chỉ ra “đạo lý chân chính của nó”, “là một dạng dân chủ”: “Lúc bấy giờ câu nói “Phép vua thua lệ làng” có cái đạo lý chân chính của nó, chừng nào thể hiện một dạng dân chủ, mà phải biết nhìn với con mắt lịch sử mới thấy hết ý nghĩa độc đáo” (2) Phạm Văn Đồng còn chỉ ra phương pháp tiếp cận “con mắt lịch sử”.

Đúng như vậy, phải biết thực trạng của người nông dân/làng vào thời đại mà vua/phép vua còn thống trị, mới thấy hết “đạo lý” của lệ làng.

Môi trường sống của VHTT: Ba cột trụ

Mọi hiện tượng xã hội đều sinh ra và phát triển trong một môi trường xã hội nhất định, mà ở nước ta là: nhà, làng, nước và được Phạm Văn Đồng đánh giá rất cao, nhắc lại nhiều lần. Để khẳng định khả năng chống đỡ và sức trường tồn của chúng, Phạm Văn Đồng gọi đó là ba cột trụ: “Xã hội ta mang dấu ấn bền vững của ba cái cột trụ mà phần trên đã nói là: Gia đình (nhà), làng và nước”. (3)

Ba cột trụ đó chống đỡ và bảo vệ cái gì? Đó là tính cộng đồng và tính nhân văn Việt Nam: “Đi sâu nghiên cứu ta thấy nổi bật hai điểm: Một là, tính cộng đồng bao gồm ba cái trục: Gia đình (nhà), làng và nước; hai là xu hướng nhân văn hướng về con người”. (4)

Điều đặc biệt quan trọng là: “sức mạnh tổng hợp của nó có liên quan mật thiết đến sự tồn tại và hưng thịnh của dân tộc”:

 “Trở lại hệ thống gia đình (nhà), làng và nước, chúng ta phải thấy mối quan hệ hữu cơ, sự gắn bó ngược xuôi giữa ba cơ cấu chính trị xã hội mà sức mạnh tổng hợp của nó có liên quan mật thiết đến sự tồn tại và hưng thịnh của dân tộc… Ôn cũ biết mới, tôi muốn nhấn mạnh chân lý lịch sử nói trên để chúng ta suy ngẫm về tình hình hiện nay mà chúng tôi đang có cơ hội nói tới”. (5)

Như vậy để giữ nước, chúng ta phải củng cố nhà và làng. Thế mà có một lúc chúng ta theo ý của người khác, đã ra sức tàn phá văn hóa làng xã và văn hóa gia đình, gây nên những “sai lầm nghiêm trọng”.

Văn học dân gian và văn học bác học

Bên cạnh văn học bác học, Phạm Văn Đồng rất đề cao văn học dân gian: “Đây là những hoài bão trong sáng và đẹp đẽ, những khao khát của cả cộng đồng và từng người Việt Nam ta. Tổ tiên ta diễn đạt những hoài bão và ước mơ này dưới nhiều dạng trong văn học dân gian biết bao phong phú và mãi mãi tươi đẹp; cũng như trong văn học bác học với những tác phẩm mà cho đến ngày nay chúng ta không hết ngạc nhiên về tầm cao và chiều sâu cũng như giá trị nghệ thuật của nó”. (6)

 “Tôi xin lấy một câu ca dao làm ví dụ:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Và lấy một câu nữa trong Kiều:

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

Đó là những câu rất hay, là hai hòn ngọc. Một hòn ngọc hãy còn mộc mạc của dân gian, và một hòn ngọc đã qua tay người thợ thiên tài”.(7)

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ảnh: T.L        

Phạm Văn Đồng luôn coi trọng văn học dân gian, nhưng với tinh thần có mức độ, coi đó là những hòn ngọc quý mà còn mộc mạc; so với văn hóa bác học “đã qua tay người thợ thiên tài”. Giới nghiên cứu khoa học xã hội đã thảo luận khá nhiều để phân biệt văn hóa dân gian và văn hóa bác học, đều cho đây là một việc rất khó. Có nhà khoa học đưa ra một tiêu chí “phạm quy”, bị nhiều người phản đối, cho rằng xấu kém là dân gian, tốt đẹp là bác học (?). Phạm Văn Đồng đã có sự phân biệt riêng, đơn giản mà khá thuyết phục: Mộc mạc và trau chuốt.

2. Vai trò của VHTT

VHTT phản ánh lịch sử

Vấn đề mối quan hệ giữa VHTT và thực tiễn lịch sử xã hội từ muôn thuở đã tốn bao nhiêu giấy bút để bàn luận và nhiều lý thuyết đã được đặt ra:

- “Văn chương tự cổ vô bằng cứ”

- “Văn dĩ tải đạo”

Qua thể loại truyền thuyết, Phạm Văn Đồng cho rằng, VHTT có chứa đựng lịch sử xã hội nhưng không phải dưới dạng trần trụi như văn chương chính luận, mà dưới một hình thức nghệ thuật giàu sự tưởng tượng. Các nhà lý luận văn học gọi đây là phương pháp phản ánh hiện thực bằng hư cấu.

 “Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con người ưa thích”. (8)

Sau đó một lần nữa Phạm Văn Đồng nhắc lại lý thuyết trên:

 “Nhớ lại thời Vua Hùng với những truyền thuyết có tính thần thoại của nó, như "Bọc trăm trứng”, “Sơn Tinh-Thủy Tinh”, “Thánh Gióng”, tôi càng thấy giá trị văn hóa của những truyền thuyết đó. Trước đây, tôi có một câu mà hôm nay tôi muốn nhắc lại: Thần thoại có khi giàu tính lịch sử, bởi nó là tính lịch sử thông qua tính thơ mộng của dân gian. Ngày nay, dân ta còn giữ đền thờ và hằng năm nô nức vui mừng tổ chức ngày giỗ Vua Hùng, ngày hội Thánh Gióng”. (9)

Khẳng định các truyền thuyết thời vua Hùng có tính lịch sử là khẳng định một vấn đề rất lớn: Thời kỳ Hùng Vương tồn tại thực sự trong lịch sử nước nhà. Nhưng không nên đồng nhất truyền thuyết với lịch sử, vì truyền thuyết có tính thần thoại, “được chắp đôi cánh của sức tưởng tượng”. Vậy không thể hiểu cứng nhắc là có thực bọc trăm trứng, là Thánh Gióng thực sự cưỡi ngựa sắt bay về trời.

VHTT đối với hiện tại và tương lai

Phạm Văn Đồng có một cái nhìn sâu sắc, biện chứng, rằng VHTT của ba thời kỳ, quá khứ, hiện tại và tương lai vận động gắn kết chặt chẽ với nhau.

Trước hết là quá khứ - hiện tại, diễn tiến mạnh mẽ, sức chiến đấu được chuyển đến từ quá khứ “quá khứ đứng lên”, “truyền lại ý chí kiên cường bất khuất của tổ tiên cho hiện tại-người đang chiến đấu”. “ Ở đây tôi cần nhấn mạnh rằng, thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến là thắng lợi của trí tuệ thông minh và tài năng sáng tạo… cả quá khứ đứng lên với những di sản và truyền thống hào hùng, truyền lại cho người đang chiến đấu ý chí kiên cường bất khuất của tổ tiên”. (10)

Tiếp đến là mối quan hệ quá khứ - hiện tại - tương lai. Truyền thống hào hùng - quá khứ, truyền đến hiện tại, rồi cả quá khứ và hiện tại - đã được nhân lên, gộp lại đẩy đến tương lai. Một sự chuyển động mạnh mẽ hùng tráng - một phát hiện rất mới lạ.

“Quá trình lịch sử Việt Nam nhìn tổng quát là quá trình phát triển những giá trị văn hóa, thành tựu vĩ đại nhất của dân tộc ta. Quá khứ làm nên hiện tại và hiện tại cùng quá khứ làm nên tương lai với cái vốn giàu có nhất, quý báu nhất của một dân tộc, một chế độ”. (11)

Quy luật trên được cụ thể hóa bằng thực tế cách mạng từ năm 30 của thế kỷ 20:

 “Những thập kỷ vừa qua, có thể kể từ những năm 30 của thế kỷ này, tuy thời gian rất ngắn so với cả lịch sử của dân tộc, song nó tràn đầy những giá trị văn hóa mới của thời đại, làm giàu thêm bản lĩnh và truyền thống quý báu của dân tộc, không chỉ góp phần làm nên những chiến thắng lạ lùng với nhiều ý nghĩa lịch sử đã được nhấn mạnh trên đây, mà còn tạo cơ hội và môi trường để nền văn hóa của dân tộc tiếp tục được giữ vững, thừa kế, phát triển và nâng cao, nhằm những phương hướng lớn mang dấu ấn của thời đại là độc lập dân tộc và định hướng XHCN”.(12)

Tuy nhiên, không phải chỉ một chiều quá khứ - hiện tại - tương lai, mà còn có ảnh hưởng ngược lại: Từ hiện tại quay về quá khứ với sự hiểu biết và kinh nghiệm của hiện tại. “Chúng ta thường nói: Ôn cũ biết mới. Phải nói thêm: Từ mới hiểu cũ”.(13)

Và tất cả sự vận hành đa dạng, đa phương trên nhằm đến một mục tiêu: “Trên đây tôi nhắc lại rất vắn tắt một vài suy nghĩ về văn học dân gian và văn học bác học ở nước ta, coi đó là di sản và truyền thống mà ngày nay chúng ta rất cần, là của quý có thể làm cho đời sống xã hội của đất nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng dần dần trở nên trong sạch và lành mạnh, dần dần tốt đẹp và văn minh”.(14)

Được như vậy quả là khó khăn, phải thật kiên trì. Có lẽ đảng viên và cán bộ liên tục sống và làm việc như Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong nhiều thập kỷ thì xã hội của đất nước ta sẽ trở lại “trong sạch và lành mạnh”, “tốt đẹp và văn minh”.

.................

[1, 3, 7, 8, 9, 11, 12, 14],  Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới, nxb CTQG, H, 1994

[2, 6], Phạm Văn Đồng: Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, nxb CTQG, H, 1998

[4, 10, 13] Phạm Văn Đồng: Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ, nxb Văn học, H, 1969

[5] Phạm Văn Đồng: Nhân ngày giỗ tổ vua Hùng, Báo Nhân dân số ra ngày 29-4-1969

GS, TSKH PHAN ĐĂNG NHẬT