QĐND - Sau hơn 30 năm mang áo lính và một phần tư thế kỷ làm báo trong quân đội, đến nay, Đại tá-nhà thơ đang tại ngũ Mai Nam Thắng đã xuất bản một tập thơ chung, ba tập thơ riêng, một tập trường ca và ba tập truyện ký. Từ thuở binh nhì là tập thơ mới nhất của Mai Nam Thắng, do NXB Quân đội nhân dân phát hành đầu quý 4-2014, trong khuôn khổ các ấn phẩm chào mừng 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-2014).

Tập thơ gồm hai phần. Phần một có tên Từ thuở binh nhì, gồm các bài viết về đồng đội, thao trường, chiến trường… từ khi nhập ngũ năm 1980 cho đến khi suy tưởng về Lau trắng Điện Biên tháng 5-2014. Phần thứ hai có tên là Những vòng quay, chỉ có một bài viết năm 1989, còn tất cả đều từ năm 2000 trở lại đây. Nghĩa là khi tác giả đã vào tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”, hay nói một cách thơ ca như tác giả thì “Giờ như sông tư lự dềnh dàng/ Sau cuộn xiết thác ghềnh bão lũ”. Đây là phần nghiêng về thế sự, những chiêm nghiệm, những suy ngẫm về sự thấp-cao, phải-trái, đúng-sai, riêng-chung… của một người từng trải.

Bởi thế mà đọc tập thơ này, bạn đọc sẽ bắt gặp những “Câu thơ hát suốt thời trai” (câu thơ trong bài Thả một bông trang về cuối hạ). Từ khi anh là một thầy giáo sắp nhập ngũ, nghe đồng nghiệp tập giảng mà liên tưởng thời cấy đêm trong chiến tranh chống Mỹ, đến khi vào lính: “Buổi chia tay phượng bừng bừng như biển cháy/ Để bây giờ nỗi nhớ rợp màu hoa”. Những bài thơ Từ thuở binh nhì ấy có hình ảnh thao trường: “Trưa chiến hào nắng như bốc lửa/ Gió điên cuồng thốc lá ngụy trang”. Và là người lính cho nên bên một Hà Giang mơ mộng, yên bình: “Ngựa chồn chân râm ran phiên chợ/ Điệu khèn môi vấn vít câu mời”; lại có: “Thêm một Hà Giang trận mạc bời bời/ Cót Ép, Đồi Đài, Lò Vôi Thế Kỷ…/ Đêm Cô Ích thức cùng chiến sĩ/ Chiều Tổ Chim căng một đường cung…”. Những vần thơ khỏe khoắn, trẻ trung của anh dành hát về những đồng đội của mình. Họ là những chiến sĩ ra-đa ở Sơn Trà: “Vượt dốc dài áo quắt mồ hôi/ Trái sim cằn lăn như hòn sỏi/ Cỏ may găm phơ phất đỉnh trời…”. Họ là những chiến sĩ lính công trình tập lên sóng ti vi trong tiết mục “Chúng tôi là chiến sĩ”; là những người lính đảo chịu bao gian khó và thiệt thòi:

Có lá thư nửa năm vừa nhận

Có thằng cu biết lẫy, biết bò chưa biết mặt cha […]

Ba mươi năm như thế

Lính công trình vẫn lính Trường Sa

Vẫn sắt thép, xi măng

Và lời thề giữ biển

Tổ quốc lớn mỗi ngày trên bão tố phong ba!

Bìa tập thơ “Từ thuở binh nhì”. Ảnh: Thao Hóa            

Là nhà thơ mặc áo lính nên Mai Nam Thắng nhạy cảm với những vấn đề chiến tranh và hòa bình, hy sinh và mất mát… Anh viết về đồng đội của mình với bao cảm thông, trân trọng, ngậm ngùi:

Bao nhiêu anh hùng thăm thẳm ngày đi

Xanh tê tái những mùa rau ngóng đợi

Bao nhiêu anh hùng trở về xa lạ

thương tích ngẩn ngơ

long đong cơm áo…

loay hoay mũ áo cân đai…

Một đồng đội ở Mai Đình là hình ảnh gặp hằng ngày của bao nhiêu binh nhất, binh nhì trong quân đội của chúng ta hoàn thành nghĩa vụ trở về: “Xắc-cốt ngang hông/ Quần quá gối/ Vợ đang son bữa cơm nào cũng đợi/ Chiếc xe tàng bê bết bùn ao/ Gặp nụ cười là nhận ra nhau/ Dẫu quân phục bạc màu mưa nắng...”. Đặc biệt nhất là người lính Mai Nam Thắng luôn đau đáu với những hy sinh của lớp lớp cha anh, những người đồng chí, đồng đội. Chẳng hạn như Thạch Hãn, một địa danh lịch sử đầy mất mát, đau thương trong cảm nhận của anh: “Ve ran… Ve ran… Đôi bờ nắng xối/ Xanh nghẹn ngào Thạch Hãn những mùa hoa!”. Những bài thơ: Hoa loa kèn, Phượng hồng Thạch Hãn, Những mùa ký ức, Lau trắng Điện Biên… và ba bài thơ cùng viết về hang Hà, nơi các chiến sĩ thông tin hy sinh trong chiến tranh, là những suy tư, tưởng niệm của anh với những hy sinh vô bờ của các chiến sĩ “… đã hóa vô danh/ Hóa cánh rừng sốt rét tái xanh/ Hóa vầng trăng hạ tuần ối đỏ…”. Tình cảm của người lính cũng là tình cảm của toàn dân với sự hy sinh của các chiến sĩ: “Người xưa đã tím vào hoa/ Ngàn sau xin chẳng phôi pha lòng người!". Bài thơ Lau trắng Điện Biên là một bài thơ giàu chất suy tưởng, tác giả khép lại phần thơ thứ nhất Từ thuở binh nhì. Đấy là một bài thơ hay viết về lau sau những câu thơ “hồn lau” của Quang Dũng. Bốn câu kết của bài thơ được tác giả chọn in lên trang gấp của bìa một:

Như nỗi niềm ký thác của ông cha

Như đất nước trường sinh tươi tốt

Như người lính ngàn đời bên cột mốc

Lau vĩnh hằng trong cõi Nhân Dân!

Phần thứ hai của tập thơ là Những vòng quay, như đã nói ở trên, là phần nghiêng về thế sự và suy ngẫm. Thật ra, sự suy ngẫm thế sự cũng đã có trong phần thứ nhất rồi. Ví dụ bài Rau tập tàng: “Ai hay một ngày hotel chọc trời/ Có món rau tập tàng đặc sản/ Thực khách hồn nhiên/ Rôm rả nói cười…”. Có điều ở phần này, sự suy ngẫm, chiêm nghiệm tập trung hơn, giọng điệu thơ cũng tung tẩy, phóng khoáng và thêm chất hài hước, trào lộng. Không chê thẳng anh nhà giàu xổi lên thành trọc phú, nhưng ta không thể không mỉm cười vì cái câu hỏi có vẻ bâng quơ này: “Chao ơi biệt thự nguy nga/ Tiện nghi toàn đồ hạng nhất/ Ngó quanh tìm cái giá sách/ Chẳng hay kê ở phòng nào?". Rồi chuyện giáo sư Ngô Bảo Châu giải được bổ đề, được nhận huy chương Fields cao quý, nhà thơ cũng ngẫm ngợi nên một bài thơ vui, nhưng là vui cười… ra nước mắt:

Thiên tài hồi hương vẻ vang xứ sở     

Thiên tài lại đi bổ đề còn đó:

Bổ đề kẹt xe tắc đường nghẹt thở

Bổ đề lạm thu phụ huynh nhăn nhó

Bổ đề viện phí thoi thóp bệnh nhân

Bổ đề giá lương long đong nội trợ

Bổ đề cúp điện phố xá quạt mo

Bổ đề xin-cho cửa quyền tham nhũng

Bổ đề thủ tục một mớ bòng bong…

Những việc bình thường hằng ngày như chú Thọ được thăng chức, anh Huy Thiêm sắp về hưu, nhạc sĩ Lương Nguyên mất con yểng quý, anh bạn đi xe đạp để giảm cân… đều vào thơ một cách tự nhiên, vui vui, nhưng không khỏi làm cho người đọc suy ngẫm về vòng quay giàu-nghèo, vị trí quyền lực, đường công danh, đường bạn bè, việc chung và việc riêng… Ví như chuyện của nhạc sĩ Lương Nguyên: Nào bảo vệ tác quyền/ Nào bảo tồn nhạc cổ/ Tiếng chim nhà mình thì quên bảo hộ/ Cơ sự đã rồi… ngơ ngẩn vào ra… Và chuyện Được rẽ phải bao năm luôn đổi thay ở một ngã tư khiến ta nghĩ đến câu tục ngữ mới trong dân gian “sáng đúng, chiều sai, đến mai lại đúng”! Phần này, nhà thơ khi thì giọng điệu nghiêm trang (Làm sao tạ lỗi); khi thì thủ thỉ dặn dò (Trên đường về quê); khi thì hồn nhiên tự thú (Gửi bạn bè ngoài Hà Nội); khi thì tếu tếu hài hài (Lục bát cho mình)…

Hai phần của tập thơ là hai mạch thơ vừa bổ sung, vừa nâng đỡ cho nhau, vừa cân bằng giữa hướng ngoại và hướng nội; giữa cảm xúc và trí tuệ; giữa hồn nhiên, trong trẻo với già dặn, suy tư; giữa nghiêm trang và hài hước… Điều đó làm cho tập thơ đa thanh, đa sắc trên một sự thống nhất tâm hồn của nhà thơ áo lính Mai Nam Thắng.

PGS, TS VŨ NHO