QĐND - Hiếm có một giai đoạn nào mà thi đàn nước nhà lại chứng kiến nhiều sự xuất hiện của những cây bút trẻ có ảnh hưởng đến văn học học đường như khoảng thập niên 1990. Có thể nói, các tác phẩm của họ đã đem lại một vị thế mới cho văn chương trong giới trẻ, đặc biệt trong văn học nhà trường. Chúng ta có thể kể ra hàng loạt những cây bút như Bình Nguyên Trang, Dương Bình Nguyên, Hoàng Anh Tú, Khánh Hạ, Đường Hải Yến, Chu Thu Hằng, Đàm Huy Đông… Những cây bút trẻ 7X này đã tạo dựng tên tuổi và sức lan tỏa trên văn đàn, là bởi ngoài sự sáng tạo mạnh mẽ, họ còn có một sân chơi đầy thuận lợi vào thời điểm ấy-đó là tờ báo Hoa học trò.

Đàm Huy Đông nổi tiếng với những bài thơ trên báo Hoa học trò như: "Mối tình đầu", "Miền trăng", "Đếm tuổi", "Không đề III", "Định nghĩa tình yêu", "Nếu thật buồn em hãy về với biển", "Bài thơ không tên số 8", "Sẽ có một ngày"… từng viết dưới những bút danh như Hòa Bình Hạ, Hy Giang, Giang Tây… Thơ Đàm Huy Đông là những gì đặc trưng và kết tinh nhất của quan niệm thẩm mỹ và tâm lý lứa tuổi học trò một thời, lãng mạn, nhiều kỷ niệm, buồn nhưng không bi lụy và ghi dấu nhiều vẻ đẹp của thiên nhiên, những trò chơi, cách xưng hô tuổi học trò. Nhưng nhược điểm của Đàm Huy Đông là sự chững lại chỉ ở duy nhất một dòng thơ, một lối tư duy và một kiểu tư duy hình tượng của thơ học trò. Khi cái không gian ấy, sân chơi ấy và cả khi lứa tuổi đã không còn cho phép họ được suy tư theo lối hồn nhiên học trò, thì sự hụt hơi ắt đến, và Đàm Huy Đông cũng như nhiều cây bút khác, đã chấp nhận để lại sau lưng mình một khoảng trống sáng tạo, khoảng trống “trưởng thành thi ca”.

Như chúng tôi đã nhận định, những gì kết tinh nhất của thơ Đàm Huy Đông là một thế giới cổ tích dành cho lứa tuổi học trò. Anh đã vận tất cả vốn ngôn ngữ, những kinh nghiệm về trò chơi dân gian, hoặc tâm lý lứa tuổi để kiến tạo nên thế giới cổ tích. Chúng ta có thể thấy lối xưng hô đặc thù học đường và cách ví von hài hước như: “Tình yêu là gì hở nhỏ/ Anh không định nghĩa được đâu/Chỉ biết khi yêu ai cũng/Ngố ngố man man, ấm đầu/Có thể tình yêu là bệnh/Nên người ta gọi "cảm" nhau/ Bệnh này ở trong lục phủ/Làm cho gan héo ruột đau” (Định nghĩa tình yêu). Tình yêu học trò bao giờ cũng hồn nhiên, trong sáng, có chút e dè nhưng đẹp rạng rỡ khôn nguôi trong ký ức, nó có thể là đơn phương nhưng lại là thứ tình yêu trọn vẹn, không bị vấy màu bởi ham muốn xác thịt hay những toan tính thực dụng, hoặc ám ảnh của những thiết chế xã hội, gia đình.

Thật lạ là, trong tập thơ đầu tay của anh "Miền không có gió", chỉ có hai bài thơ học trò là "Đếm tuổi" và "Nếu thật buồn em hãy về với biển". Như vậy, Đàm Huy Đông đã dũng cảm hướng thơ mình đi theo một lối khác, đời hơn, thật hơn, trưởng thành hơn, nhưng cũng bẽ bàng, góc cạnh và cô đơn hơn. Tuy nhiên, đọc lại tập thơ, chúng ta vẫn bắt gặp một Đàm Huy Đông quen thuộc, tuy có già dặn, từng trải hơn, nhưng cái mã di truyền nghệ thuật thông qua lối tư duy hình tượng là vẫn không thay đổi. Trong tập thơ của anh vẫn thấy rất nhiều hình tượng đẹp, cả thiên nhiên lẫn con người, đặc biệt là sự xuất hiện của rất nhiều loài hoa và trò chơi mà có lẽ đã in dấu trong ký ức của tất cả chúng ta. Từ "hoa lộc vừng", "cơm nguội vàng" (Không đề), "cúc bói hoa vàng", "hoa sữa" (Hà Nội nhớ), "hoa loa kèn", "hoa gạo" (Tháng tư)… cho đến hệ thống hình tượng như "sông Hồng xa xanh xao gân cát, tay chèo cào mòn vẹt lòng sông" (Hà Nội nhớ). Tuy nhiên, điểm cốt lõi nhất, kết nối mảng thơ của anh sau này với mảng thơ học trò trước đây, vẫn là cái tôi trữ tình đầy lãng mạn, đa cảm nhưng lại rất rụt rè và sẵn sàng cam chịu thiệt thua, mất mát trong tình yêu.

Điểm cách tân của thơ Đàm Huy Đông từ chặng học trò đến chặng “đời tư thế sự” khi trưởng thành không phải ở tứ thơ, thể loại hay những cách tân cụ thể về thi pháp. Xét một cách tổng thể về mặt hình thức thơ, Đàm Huy Đông vẫn không có nhiều sự bứt phá và cách mạng triệt để, thơ anh vẫn theo trường vần điệu như thời Thơ mới, tuy một vài bài có thể ghi nhận sự phá cách theo lối thơ văn xuôi (Đoản khúc thu; Thu), hoặc vài bài khác có những cách tân về vắt dòng (Đợi; Không đề đêm bão; Đoản khúc mưa)... nhưng tất cả đều không mới ở điểm nhìn đương đại. Điểm trưởng thành, sâu sắc hơn ta có thể tìm thấy trong thơ Đàm Huy Đông giai đoạn sau này đó là tính triết lý chiêm nghiệm, cách anh xây dựng hình tượng và thế giới quan mới mẻ. Từ ngày cái tôi trữ tình nhận ra sự lụi tàn của thế giới cổ tích mà anh từng mơ về và cất công kiến tạo một thời trong thơ, thì thi nhân đã chua xót: “Quặn lòng/sông có bao giờ thẳng/anh từng ấy tuổi biết sông buồn…/Con bói cá xanh màu nhạo báng/Có những thứ chìm không phải vì quá nặng” (Phù sa). Thế giới cổ tích học trò thuở trước giờ đây đã chỉ còn là thế giới trụi trần với những hình tượng đời thường, thô ráp mà thôi.

Như vậy, tác giả đã thay đổi triệt để hệ thống hình tượng trong thơ mình, đưa thơ trần trụi hơn và xích lại gần hơn với cuộc sống. Điều đó không đơn thuần chỉ bởi có một thiên đường đã đổ vỡ trong anh, mà nó là chứng nhân cho sự trưởng thành, sự khơi mở và giãn nới của con tim, từ học đường ra đường đời, từ tình yêu đến sự thăng hoa cũng như bi đát của kiếp người. Từ khi anh nhận ra sự hoài nghi về những điều giản đơn nhất: “Anh về lần tìm dò dẫm/Hoài nghi cả lòng bàn tay” (Ngõ lá), thì thế giới cổ tích với nhà thơ đã không thể nào giữ lại, nên anh mạnh dạn phản biện cổ tích, bài thơ mà chúng tôi đánh giá là bước ngoặt nhận thức trên địa hạt quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới quan của nhà thơ. Trong thế giới mới ấy, thế giới lụi tàn của cổ tích, anh nhận ra không có chuyện tình yêu là vĩnh cửu, cùng lấy nhau hoặc cùng chết, mà có những người yêu nhau tha thiết rồi bỏ nhau vội vã, bỏ người yêu hôm trước thì ít hôm sau đã vội lấy chồng, không có chuyện ở hiền gặp lành, mà có người cả đời hiền lành vẫn chết đớn đau… Cái thế giới lụi tàn của cổ tích ấy, suy cho cùng là một phần thế giới thực tại của chúng ta. Ấy vậy nên, nhà thơ dù đớn đau, nhưng vẫn phải sống trong một thế giới mới, nơi biển không còn có thể cứu rỗi mỗi khi em thật buồn, mà giờ đây mọi thứ chỉ còn: “Xóa vội vã dấu chân/dấu chân đã hóa thạch cổ đại ...” (Nhát cứa).

Thơ Đàm Huy Đông như thế, theo cách nhìn của phân tâm học, là một chấn thương và ẩn ức, từ tình yêu không thể nói ra cho đến tình yêu tan vỡ không thể cứu vãn, phục hồi, nhưng tất cả đều toát lên giá trị nhân bản và cao thượng. Nó đúng như lời thơ của anh: “Những mảnh vỡ/Dạy ta yêu/Dạy ta biết vỡ” (Đoản khúc cho chiếc bình vừa vỡ). Sau quá trình “dạy học” đầy đớn đau ấy, biết đâu, chúng ta sẽ có được một Đàm Huy Đông mới mẻ và đi lại lâu dài trong thi giới.

Tiến sĩ PHAN TUẤN ANH