1. Trong chuyến công tác của đoàn đại biểu cấp cao Hội Nhà báo Việt Nam sang thăm và làm việc tại Trung Quốc cuối tháng 9-1999 do nhà báo, nhà văn Phan Quang, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam dẫn đầu, tôi và Kim Toàn có dịp trò chuyện thân tình với nhau.
Anh là người nhanh nhẹn, rất hoạt cả trong xử sự, phong cách sống, làm việc và trong tư duy nghề. Chỉ qua 10 ngày trong chuyến đi nhưng tôi phát hiện Kim Toàn là nhà báo năng nổ, lăn xả, lúc nào cũng tác nghiệp chứ không chịu ngồi yên. Hôm ở Nam Kinh-thành phố từng là thủ đô 10 triều đại vua của Trung Quốc, trong khi mọi người dự tiệc xong vẫn ngồi trong khách sạn, anh kéo tôi xuống phố để đi thực tế. Rồi những lần gặp gỡ, đi dạo phố, anh không chỉ chăm chú nghe, trao đổi mà còn “lăn ra” chụp hình, thậm chí nằm sấp xuống giữa quảng trường Thiên An Môn để lấy hậu cảnh... Tinh thần làm việc lăn xả ấy khiến tôi rất ấn tượng về phong cách tác nghiệp dấn thân của anh.
 |
Nhà báo Kim Toàn (bên phải) và Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Lê Quốc Minh, ngày 15-6-2025. Ảnh do nhân vật cung cấp
|
2. Nhà báo Kim Toàn từng có nhiều năm lăn lộn ở khắp chiến trường Nam Bộ hay những ngày bí mật đột nhập sào huyệt của chính quyền ngụy Sài Gòn. Thực tế đó đã có trong các ghi chép của anh. Đó là những tư liệu quý, chân thực, sinh động hơn cả những bài viết hay lời kể về nhà báo. Đọc những ghi chép trong cuốn sách sắp xuất bản có tựa đề "Kim Toàn, nhà báo-chiến sĩ", khó có thể nói hết chặng đường chinh chiến của nhà báo-chiến sĩ Kim Toàn nơi tiền phương, ngay cả trong lòng địch, từ việc đưa tin, viết bài, chụp ảnh... cho đến tham gia các đội du kích, đội vũ trang tuyên truyền, trực tiếp cầm súng chiến đấu với địch ở cả rừng núi, đồng bằng và ngay tại nội đô Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968...
Với nhiệt huyết nghề nghiệp, bằng những kiến thức cơ bản được trang bị từ “lớp báo chí đặc biệt” của Trường Tuyên huấn Trung ương (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền) trước khi vượt Trường Sơn vào Nam và bằng thực tiễn trải nghiệm ở cả hậu phương và tiền tuyến, anh không chỉ tích cực góp phần xây dựng trường báo chí của Tiểu ban Báo chí, Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam mà còn trực tiếp tổ chức một số lớp làm báo cấp tốc ngắn ngày tại chỗ, phục vụ các địa phương, đơn vị Quân Giải phóng. Những đóng góp như thế, rất âm thầm nhưng thật đáng trân trọng. Nhưng có hai chi tiết làm tôi nhớ mãi.
Chi tiết thứ nhất, cơ quan Báo Giải Phóng tại chiến khu Tây Ninh-nơi anh công tác từng nhận được “giấy báo tử” từ mặt trận Sài Gòn-Gia Định, báo tin Cao Kim hy sinh trong một trận chiến đấu chống càn hồi đầu Xuân Mậu Thân 1968. Cơ quan báo đã tổ chức lễ truy điệu anh, nhưng hơn 3 tháng sau, anh lại trở về. Số là, trước hôm diễn ra trận đánh chống địch phản kích tại cửa ngõ Sài Gòn, đồng chí đội trưởng Đội Vũ trang tuyên truyền T4 kiêm Bí thư chi bộ là người tiếp nhận chiến sĩ Cao Kim gia nhập đội và lưu giữ giấy chuyển sinh hoạt Đảng của nhà báo. Trong một trận giáp chiến ác liệt với địch, người đội trưởng bị thương nặng và hy sinh. Khi kiểm tra giấy tờ, bác sĩ thấy lúc đó trong túi ngực của người vừa tắt thở chỉ có duy nhất giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng mang tên Cao Kim. Chính vì vậy nên bác sĩ tưởng nhầm người hy sinh là nhà báo Cao Kim và Ban Quân y Phân khu 3 mới viết “giấy báo tử” gửi về Báo Giải Phóng, nhờ báo đến gia đình “liệt sĩ” Cao Kim. Thực ra thời điểm ấy, Cao Kim vẫn đang cùng đồng đội chiến đấu ở mũi khác.
Chi tiết thứ hai, nhà báo Cao Kim có thời điểm đã cùng nhà báo Hồng Châu (Thép Mới) nằm vùng bí mật hoạt động báo chí trong nội đô Sài Gòn, tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Ở thời điểm chiến trường ác liệt và diễn biến vô cùng phức tạp ấy, không phải ai cũng được tin cậy giao những nhiệm vụ nặng nề và nguy hiểm như thế, vì nó đòi hỏi nhiều phẩm chất khó miêu tả, chỉ có những con mắt tinh đời, tinh trận mạc mới nhìn ra người và giao phó. Có lẽ những ai đã trải qua cuộc chiến trong lòng địch mới có thể “thẩm” được những đóng góp thầm lặng và cao quý của những chiến sĩ hoạt động nằm vùng.
3. Rời chiến trường, anh Cao Kim về lại đất cảng Hải Phòng, vẫn vào cuộc say mê với nghề báo chí, nhiệt huyết như thời thanh xuân trên chiến trận. Thời chúng tôi vẫn còn nhớ lắm, Báo Hải Phòng là tờ báo Đảng địa phương từng đi tiên phong trong việc tự chủ tài chính, quyết liệt đổi mới mạnh mẽ, toàn diện hoạt động báo chí. Thời bao cấp mà đi đầu như thế dễ bị “hy sinh” lắm. Nhưng anh cùng với tập thể tòa soạn đã nhìn ra lối đi rất rõ ràng: Báo Đảng tất nhiên phải đảm nhận việc tuyên truyền nhiệm vụ chính trị, song phải gắn với công chúng, sát với cuộc sống. Tức là báo in ra phải có nhiều người đọc, phải bán rộng rãi, người làm báo mới sống được. Tờ báo của Đảng bộ thành phố cảng đã mạnh dạn mở lối đi riêng cho mình.
Từ Ủy viên Ban biên tập kiêm Thư ký tòa soạn, rồi Phó tổng biên tập cho đến khi đảm nhiệm Tổng biên tập tờ báo xuất bản hằng ngày của Đảng bộ thành phố, nhà báo Kim Toàn vẫn cùng các đồng nghiệp kiên trì vượt khó và hiên ngang tiến bước. Khi tuyên truyền nhiệm vụ chính trị, Báo Hải Phòng luôn gắn kết với đời sống công chúng và nhân dân, xuất bản thêm các ấn phẩm mới, mở rộng phát hành báo từ đô thị đông đúc công nhân đến bà con nông dân, ngư dân vùng ngoại thành, hải đảo xa xôi bốn mùa sóng vỗ. Hơn nữa, báo còn có mặt tại nhiều tỉnh, thành phố trong nước, cả trong Nam và ngoài Bắc. Nhờ thế, Báo Hải Phòng đã thổi vào đời sống nhân dân luồng sinh khí mới, góp phần cùng nhân dân thành phố trong công cuộc đổi mới quê hương, đất nước.
Chỉ tiếc là bài học tự chủ tài chính và đổi mới báo chí từ gần 50 năm nay của tờ báo của Đảng bộ thành phố cảng chưa được đúc kết để nhân rộng từ sớm, bởi đó là tư duy kinh tế báo chí đã nảy sinh, phát triển từ trong khó khăn thời bao cấp. Thật ngẫu nhiên hay duyên nợ lịch sử mà Hải Phòng trước đó cũng là nơi mở đầu phong trào khoán sản phẩm trong nông nghiệp, để Trung ương đúc kết và cho ra đời “Nghị quyết 100” về khoán sản phẩm, rồi nghị quyết của Bộ Chính trị về “khoán 10” trong nông nghiệp. Cả hai vấn đề này đều xuất phát từ triết lý phát triển có tính quy luật, là từ lợi ích vật chất của người lao động, mà nếu được chú trọng đúng mức và kích hoạt thì chuyến xe lịch sử của đất nước ta có lẽ đã vận hành trơn tru sớm hơn, với tốc độ nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Nhắc lại mấy sự kiện, dấu mốc như vậy là tôi muốn cùng nhau ôn lại và nhìn rõ hơn sự phát triển; cũng là nhận diện dấu ấn phát triển của báo chí, nhất là báo Đảng địa phương, trong đó có dấu ấn cá nhân và tập thể đội ngũ báo chí chúng ta.
Kim Toàn (Cao Kim), từ một nhà báo-chiến sĩ từng lăn lộn, sống chết ở chiến trường, khi trở về lại tiếp tục say mê làm nghề và cống hiến trong hòa bình, xây dựng đất nước, suốt đời âm thầm cống hiến và lặng lẽ hy sinh. Không chỉ có anh mà chúng ta đã có cả một thế hệ nhà báo-chiến sĩ như thế. Nói như ngôn ngữ giới trẻ hôm nay là họ “không làm màu”, “không phông bạt”, cho đến khi rời khỏi công việc và cõi đời, họ vẫn lặng lẽ ra đi theo cách của mình. Nhưng những trang viết và ký ức của họ để lại, tấm gương của họ luôn là ngọn lửa nghề ấm áp sưởi ấm đông đảo nhà báo trẻ hành nghề nghiêm cẩn, có tâm, có đức; lẽ sống và cách cống hiến của họ hòa cùng cuộc sống lao động sản xuất sôi nổi, sinh động của các tầng lớp nhân dân.
Tại lễ ra mắt phim tài liệu “Kim Toàn, nhà báo-chiến sĩ” do Bảo tàng Báo chí Việt Nam tổ chức ngày 15-6-2025 tại Hà Nội, đồng chí Lê Quốc Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng biên tập Báo Nhân Dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam đã phát biểu: “Hành trình làm báo của Kim Toàn là bản anh hùng ca không lời, không chỉ của một con người mà của cả một thế hệ người làm báo từng sống, viết, chiến đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đổi mới xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp”.
|
PGS, TS NGUYỄN VĂN DỮNG
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.