Nhưng vẫn có nhiều bài lẻ còn lẫn vào những giọng thơ khác, chỉ đến khi có tập “Bình nguyên đỏ” thì mới thấy phần nào rõ hơn cái giọng chân thành mà suy tư, triết lý. Có thể đấy là kết quả của sự kết hợp giữa bản sắc dân tộc cổ truyền và tri thức mới về thế giới hiện đại.
Trường ca này là sự kể lại nhiều câu chuyện trong một câu chuyện chính: Linh hồn người chiến sĩ hy sinh trên đất Lào kể về cuộc chiến tranh đổ máu; về sự phiêu bạt của những linh hồn lang thang; về người mẹ Dao; về truyền thuyết thiên di… Điểm nhìn tâm linh này là đã tạo ra những hiệu ứng nghệ thuật riêng: Một là cảm thương hóa lời kể, lời kể của người đã khuất nên dễ tạo ra sự đồng cảm, đồng vọng của độc giả; hai là ảo giác hóa lời kể, lời kể dường như rất thật, lời người đã khuất, người cõi âm kể với người dương thế thì chẳng cần tô vẽ, thêm bớt.
Chương 1 “Hành trình đám mây vạn dặm” lấy bối cảnh là Chiến dịch Đường 9-Nam Lào (Lam Sơn 719) với sự gặp gỡ của những linh hồn đã chết ở cả hai phía cùng kể về chiến tranh. Cái khốc liệt được kể từ hai điểm nhìn nên càng như rõ hơn: “Trời Nam Lào bỏng rát/ Đất đai cần mẫn trộn vạn tia máu người”. Những oan hồn phía bên kia vì bị lừa gạt mà chết tức tưởi oan khốc: “Vạn vạn oan hồn/ Trôi như bay vào đồng xương trắng”. Tất cả những linh hồn ấy khi sống thì khác chiến tuyến, khác màu da nhưng khi chết rồi thì đều có điểm chung là cùng nhớ về quê hương nơi sinh ra, nhớ về người sinh ra là mẹ: “Trăm nghìn tiếng hú dài/ Thảng thốt/ Ai ơi về với mẹ!”. Thì ra đã là con người, lúc sống thì khác nhau, mỗi người một phận, đến khi chết rồi đều nhớ về nguồn cội. “Lá rụng về cội” là như thế. Đấy vừa là sự thật chân lý cũng vừa là văn hóa đạo lý, cũng là để tạo cơ sở cho ý thơ ngấm sâu hơn vào hai phương diện cơ bản của tác phẩm là sự thật và văn hóa, giản dị, lắng đọng.
Chương 2 “Những đội hình trở giấc” kể về những linh hồn Việt chưa được trở về cố hương nên làm bạn với linh hồn người lính Pa-thet mà học tiếng Lào lùm, học phong tục Lào. Lời kể được đổi giọng để những nét văn hóa Lào hiện lên, mới mẻ, lạ lẫm. Cảm động nhất là khi hai giọng cùng hướng về người mẹ: “Mẹ già rồi/ Chúng con thì trẻ mãi/ Như trăng cánh đồng Chum/ đêm nào/ cũng hình lưỡi hái/ Đêm nào dáng mẹ cũng đè giấc mơ con”. Chữ “đè” nặng nề quá không? Nhưng đây là lời của linh hồn, tất cả tri giác của linh hồn chỉ còn biết đến mẹ nên chữ ấy lại thật, thật mà đau thấm! Tác phẩm này có thể lấy một tên gọi khác là “Mẹ”, mà mấy câu sau là khái quát nhất: “Trên môi mỗi đứa con trai/ Con gái/ Mỗi cung đường chiến dịch/ Mỗi trận càn/ Mỗi khi nảy cò súng…/ Mẹ ơi!/ trước khi chết”. Tác giả khắc họa khá thành công hình tượng người mẹ Dao tần tảo “đo cuộc đời mình bằng hai đầu quang gánh”, ít lời “nén ngực mình vạn cơn giông bão”…
Kết lại trường ca là sự lý giải tên gọi: “Bình nguyên đỏ/ Bình nguyên thở khúc máu…/ Cỏ đỏ/ Mây đỏ/ Cây đỏ/ Lá đỏ/ Người bạn tôi đỏ/ Ký ức cuối cùng đỏ…”. Màu đỏ ở đây còn gắn liền với bản sắc riêng của tâm thức dân tộc Dao đỏ. Màu đỏ đã trở thành biểu trưng đa nghĩa về lòng yêu nước, sự hy sinh, về tình cảm quê hương, về văn hóa…
Có thể nói, trường ca “Bình nguyên đỏ” là một tác phẩm khá già dặn của một cây viết trẻ rộng mở nhiều hứa hẹn!
NGUYỄN THANH TÚ