QĐND - Hồi bé, tôi là một đứa lúc nào cũng tất bật, vừa lo đi học, lại lo nấu cơm, kiếm củi, thái rau nuôi lợn, nuôi gà. Bữa cơm đạm bạc độn sắn. Thứ sắn thái lát mỏng, phơi khô, mỗi bữa nấu cơm lại lấy một ca sắn khô bẻ nhỏ, ngâm nước, rồi trộn với gạo, nấu lên. Cơm sắn độn đôi khi là một thói quen với vài người, nhưng lại là nỗi kinh hoàng của nhiều người khác...

Nhắc đến sắn, là nhớ một kỷ niệm bé bỏng trong khu vườn rộng xào xạc gió ngày xưa. Trong vườn ấy, bố mẹ tôi rào riêng một khoảng đất để trồng rau. Bốn mùa rau xanh non, ăn không hết, lại chia tặng hàng xóm. Vườn rau xanh tốt là công tôi chịu khó tưới tắm. Vườn thì xa giếng, mỗi chiều, tôi phải gánh cả chục thùng nước to hơn người để tưới rau. Tôi thích tưới rau, thích ngắm những chiếc lá xanh non đọng nước giếng trong veo, thích bắt những con sâu vừa nở trên lá để chúng khỏi ăn hại và thích gió luồn trong những kẽ lá, thổi rung rinh những vạt rau cải giống trổ ngồng, và kì lạ, trong rất nhiều buổi chiều, luôn có một mùi hương rất thơm, mùi… sắn nướng.

Khu vườn luôn xào xạc gió, rất ít khi im ắng. Mùi sắn nướng thơm nức cứ phảng phất bay. Sắn gắn bó với tuổi thơ tôi từ lâu lắc: Sắn độn cơm, sắn luộc, bánh sắn, canh sắn, dưa ngọn sắn. Không lúc nào sắn vắng bóng trong đời sống gia đình tôi và nói chung là cả cộng đồng, vì đi đâu cũng thấy những đồi sắn mênh mông, sắn mọc xanh um cả… bờ rào, nơi thi thoảng có vợ chồng chim sâu xây những cái tổ rất xinh, rồi đẻ trứng, ấp nở chim non trong đó. Tôi yêu khu vườn của mình, yêu mùi sắn nướng mỗi chiều, mà không bao giờ thắc mắc: Mùi sắn nướng từ đâu ra? Ai nướng sắn vào nhiều buổi chiều như thế?

Không ai nướng sắn vào mỗi cuối chiều, khi tôi gánh nước tưới rau cả. Mà không chỉ tôi ngửi thấy mùi sắn nướng thơm nồng, rất nhiều người đi qua con đường nhỏ sau vườn rau, thấy tôi tưới rau, đều hỏi một câu y hệt: “Ái chà, ai nướng sắn mà thơm thế nhỉ?”.

Một buổi chiều, có ông cụ đi chăn bò qua nhà tôi xin nước uống. Ông là người chăn bò lâu năm, mỗi năm lùa một đàn bò lớn đi qua nhà tôi để vào khu vực chân núi xa xa. Ấy là khi hết vụ gieo cấy, người ta thả trâu bò vào núi để nuôi, sẵn cỏ, và tránh rét. Năm nào ông già cũng lùa đàn bò đi và về qua nhà tôi một đôi lần, lần nào ông cũng vào xin nước. Đôi khi, chúng tôi còn chia cho ông những chiếc bánh bột mỳ áp chảo, thứ lương thực người ta trả cho bố mẹ tôi thay tiền lương và gạo mậu dịch. Ông thích lắm, và hôm ấy, khi ngồi bên hiên nhà tôi nhai chiếc bánh mỳ áp chảo, xem tôi múc nước tưới rau, ông hỏi:

- Cháu có ngửi thấy mùi sắn nướng không?

- Có ạ, cháu hay ngửi thấy ông ạ! - Tôi đáp.

Ông cụ chiêu một ngụm nước cho đỡ nghẹn, rồi kể rằng hồi ấy, nhà tôi chưa về đây, xóm này chưa có người ở, có mấy người công nhân còn trẻ lắm, chết vì ngộ độc sắn. Họ là công nhân lái máy xúc, máy ủi, ủi đất cho một công trình xây dựng, đổ bê tông gì đó. Họ chết đâu ở khoảng cuối vườn rau.

Tôi ngỡ ngàng, chăm chú nhìn đôi mắt già nua xa xôi của ông lão. Không đợi tôi hỏi, ông tiếp:

- Họ còn trẻ, hiếu nghịch, lúc bấy giờ cả vùng này trồng toàn sắn, họ đào củ, rồi nướng, luộc, bị ngộ độc, thế là bị chết.

Từ đó, chiều nào người ta cũng ngửi thấy mùi sắn nướng, sắn luộc.

Ông già lùa đàn trâu bò vào trong núi, hẹn hai, ba tháng sau đi qua lại vào xin nước uống. Tôi kể lại câu chuyện của ông cho bố mẹ tôi nghe, về mùi sắn nướng mà ai cũng ngửi thấy, nhưng bố mẹ tôi chỉ cười.

Một mùa hè, tôi quyết định sẽ tự đào một cái ao nhỏ trong vườn để lấy nước tưới rau. Tôi còn có ý định thả cá xuống ao nữa. Một mình tôi âm thầm đào ao, xúc những rổ đất đào được lên vườn rau. Sau vài ngày chăm chỉ, tôi đã đào được kha khá, những lớp đất cứ sâu dần. Một ngày nọ, mũi xẻng của tôi đào lên một lớp than củi màu đen. Ý nghĩ về những người công nhân chết trẻ, về món sắn nướng của họ thôi thúc tôi. Tôi thận trọng lật những lớp đất màu vàng nâu lên, và ngỡ ngàng: Một cái bếp củi mà những hòn than từ những thân củi khô, vì lý do nào đó vẫn còn nguyên vẹn, một lớp cỏ khô quanh đó, vẫn còn giữ nguyên từng gân lá, như chưa từng nằm dưới lớp đất gần 20 năm. Khu vườn nhà tôi là lớp đất được người ta ủi đến, và nền đất cũ cùng cỏ non, cùng cái bếp than có ba viên đá hộc làm ba ông đầu rau kia đã bị vùi.

Có lẽ nào là cái bếp củi mà mấy người trẻ tuổi kia đã nướng sắn và chết, để mùi thơm của sắn nướng ấy như một linh hồn, sống ở thì tương lai mà không làm hại ai cả. Trong lòng tôi không có cảm giác ghê sợ, mà chỉ thấy một nỗi buồn thương vô hạn. Những linh hồn thanh xuân ấy không tan biến, vẫn trở về với gió trong mùi thơm kỳ lạ và bất diệt…

Tản văn của THẢO DUY