QĐND - Thuyền ra khơi đúng dịp đới gió mùa Đông Bắc hoạt động mạnh. Càng xa bờ, sóng biển càng lúc dữ dằn hơn. Những con sóng bạc đầu cấp 7, cấp 8, giật trên cấp 8 thi nhau chồm lên boong, lúc quất mạnh vào thân khiến con tàu sắt tải trọng 500 tấn cứ bung biêng, chênh chao như cái lá cỏn con lọt thỏm giữa mênh mông xanh thẫm của biển cả.
Hải trình ngày thứ năm, vừa sáng sớm, Thuyền trưởng, Thượng úy Nguyễn Trần Thịnh hô lớn: "Đến Nhà giàn Phúc Nguyên A rồi!". Lát sau, trên boong lục đục xuất hiện nhiều khuôn mặt vừa quen vừa lạ, quen vì hôm ở trên bờ đã gặp, lạ vì nhiều người hốc hác hẳn đi, có người vừa chui khỏi buồng đã ôm lấy thành lan can nôn ọe vì say sóng. Nhưng rất nhanh, tất cả đã lại vơ lấy máy ảnh, máy quay phim mà hồi hộp dõi mắt về phía xa. Trước mũi tàu, Nhà giàn Phúc Nguyên A hiện lên chấp chới, có khi mũi tàu chồm lên, vọt qua đỉnh nhà nên càng đi càng mất hút giữa những con sóng trắng xóa tung tẩy, tưởng như cái đuôi nó vọt lên cao mãi.
Khoảng 1 giờ sau, chúng tôi đã đến nhà giàn. Sau hồi còi chào, con tàu diễu quanh nhà tìm chỗ thả neo, anh em trong đó ùa hết ra lan can, trong tay họ là ngọn cờ Tổ quốc đỏ rực. Có người lính bắc loa tay, hướng về phía con tàu đang lừng chừng cách chân nhà độ 100m, chúng tôi nghe loáng thoáng giữa tiếng ầm ào bất tận của sóng biển: "C…h…à…ào ..các… đồ…ng…ch…í!". Vâng, chào các đồng chí thân yêu, chúng tôi chỉ có thể đứng đây và ngóng lên trên đó trong sự mến thương tình đồng loại. Bất chợt ai đó rưng rưng: "Thương các anh quá, sóng dữ vậy làm sao mà lên…"
 |
| Minh họa: Phạm Hà |
Sau nghi lễ thả hoa viếng các anh hùng liệt sĩ, đoàn nối I-com liên lạc với Phúc Nguyên A. Khoảng cách gần 100m thoáng lúc xa, lúc gần trong tiếng rè rè của máy liên lạc. Anh em khỏe, từng ngày từng giờ nhớ về đất liền nhưng vẫn an tâm, tin tưởng, vững tay súng giữ chắc vùng biển trạm quản lý! Trong buồng lái, những lồng ngực đang nén lại bỗng nhẹ đi. Một nữ phóng viên mạnh dạn tới sát I-com: "Em chào Phúc Nguyên A, chào các anh! Em là Hồng Phượng, ở Đài HTV Thành phố Hồ Chí Minh. Hồng Phượng thương các anh nhiều lắm, hãy thật cố gắng các anh nhé…". Như để kìm những giọt nước mắt, nữ phóng viên liền cất cao giọng “Qua nửa đời phiêu dạt, con lại về úp mặt vào sông quê/ Ơi! Con sông dạt dào như lòng mẹ... /Từng vị heo may trên má em hồng…”. Giọng hát vang xa, vượt qua ngoài I-com vào loa phát của tàu khiến chính chúng tôi cũng rưng rưng.
Càng về trưa, sóng càng dữ dằn hơn. Không thể chuyển hàng bằng ca-nô chuyên dụng. Lệnh phải chuyển hàng qua dây. Trên boong, bóng anh em thủy thủ tất bật, những thùng hàng gồm quân tư trang, gạo, muối, gà, vịt… được chuyển tiếp dưới thùng chứa lên mặt boong sau đó được cho vào thùng các-tông, bọc một lớp ni-lông và buộc kín để chống thấm nước. Ở góc khác, anh em buộc dây vào cái chạc sắt nhỏ và chuẩn bị một đoạn tre rất dài, đầu bịt thanh sắt cong cong. Khi tất cả sẵn sàng, trên nhà giàn liền thả tời. Sợi chão to cỡ cổ tay, buộc phao ở đầu dây, lao dần xuống biển. Khi độ dài vừa đủ, những con sóng đưa phao dạt gần mạn thuyền, vừa lúc đó anh em thủy thủ liền quay chạc, đúng thời cơ thả tay là chạc móc vào phao. Năm sáu anh em túm vào lôi sợi dây lên boong, sau đó tụm lại buộc hàng vào dây cái. Buộc xong, mười mấy anh em bụng dựa vào lan can, tay ôm hàng chờ đợi. Lệnh từ thuyền trưởng đĩnh đạc, ngắn gọn: "Thả hàng!". Anh em buông tay, những gói hàng đồng loạt nối nhau lao xuống biển. Trên nhà giàn, anh em ra vật lộn với dây tời để kéo, và rồi từng gói hàng cũng lấp ló dưới chân nhà giàn, đến gói cuối cùng thì ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Thượng úy, Chính trị viên tàu Huỳnh Chí Cường chia sẻ: "Một gói hàng thất lạc thì chúng tôi ái ngại lắm, có thể không nhiều nhặn gì nhưng là tiêu chuẩn của anh em nên rất quý, mà trên đó thiếu thốn đủ thứ các anh ạ!"
Xuôi về phía Nam, vào vùng biển Thái Lan, sóng gió lặng hơn nhiều so với vùng biển phía Bắc. Không bị sóng vật lộn như mấy ngày trước, chúng tôi đã thư thả hơn. Đến ngày thứ mười, DK1/10 Cà Mau đã thấp thoáng phía xa. Chúng tôi gặp nhiều thuyền cá của ngư dân đi lại hay thả lưới. Vùng biển trở nên xanh lét, gợi một không khí khá bình yên, thân thuộc. Nối I-com với nhà giàn, thủ trưởng đoàn thông báo sẽ lên nhà giàn. Trong lòng ai cũng hồi hộp, chờ đợi trong sự vui mừng.
Tôi tẩn mẩn tham quan DK1/10. Tầng thứ nhất có khuôn viên gần 200m2, là nơi chứa dầu, nước ngọt và tận dụng chăn nuôi gia cầm của trạm. Tầng thứ hai là nơi ăn ở, sinh hoạt và công tác của bộ đội. Trèo lên nóc tầng thượng, đập vào mắt tôi một không gian sống tươi mới với những chậu rau xanh: Cải, mồng tơi, rau rền, ớt… quen thuộc đang thời ươm ngọn, xếp ngăn nắp bên những cột anten, chảo parabol tiếp sóng. Trung úy Nguyễn Văn Cường, Chính trị viên nhà giàn tỉ tê: "Mỗi ngày mỗi người chúng tôi “hy sinh” 20l nước tiêu chuẩn để tưới cây đấy. Đây cũng là nguồn cung cấp chất xơ quý giá nhất cho anh em! Nhưng mỗi khi bão về quật xác xơ vì không có chỗ che cất, anh em lại phải ăn cá, tôm đến “ngây ngất”!". Anh cười.
Trời nhuộm hoàng hôn, phía xa tít tắp, những đốm tín hiệu của phao lưới đã giăng hàng hàng. Tôi lấy một góc chụp trên những ngọn ớt non xanh hau háu. Bất chợt, lồng vào sau khung hình lá cờ Tổ quốc đỏ tươi đang được kéo lên từ đôi tay mười tám hai mươi của Binh nhì Nguyễn Văn Lượm quê Bình Thuận. Anh chàng mỏng mảnh, nhỏ con này vừa mới hết thời gian huấn luyện tân binh, đi cùng chuyến tàu với chúng tôi ra nhà giàn đổi kíp trực. Với sức vóc ấy, Lượm là người say sóng nhất tàu, khuôn mặt đen sạm, thân hình càng như xọp lại, bé hẳn đi. Lượm bảo tôi: "Chúng em ai ra nhà giàn cũng mang một lá cờ Tổ quốc, việc đầu tiên lên nhà giàn là chính tay bọn em thay lá cờ Tổ quốc trên nóc trạm". Vừa nói, Lượm vừa tụt xuống tầng dưới. Nhìn cái dáng lui cui ấy mà lòng tôi trào lên cảm giác quý trọng em vô cùng. Chính họ, những con người như vậy đang ngày đêm kiên gan, bền chí vững vàng nơi tiền tiêu, đem lại những ngày bình yên cho Tổ quốc.
Chúng tôi quây quần bên họ, nghe họ kể chuyện. Mười con người, mười hoàn cảnh khác nhau. Hoàn cảnh nào cũng cảm động cả. Ngay như Chính trị viên Nguyễn Văn Cường đã một lần cưới hụt. Cách đây 3 năm, anh chuẩn bị đăng ký kết hôn rồi định tổ chức luôn thì nhận nhiệm vụ đi DK1/16, Cường động viên vợ đi đăng ký một mình. Đi DK1/16 về, cưới xong sau chục ngày, anh lại nhận nhiệm vụ đi DK1/10. May mắn cho họ, tình yêu ấy đã đơm hoa kết trái khi đứa con trai đầu lòng chào đời, nhưng Cường chưa được biết mặt. Cường bảo: "Cháu biết bò rồi cậu ạ, nếu trạm BTS không hỏng thì thi thoảng “mẹ nó” cũng cho nghe con “oe oe” qua điện thoại, vui lắm!".
Thiếu tá Nguyễn Đắc Bình, Trạm trưởng tâm sự: Giữa nơi biển cả bao la như thế này, chúng tôi bày trò thay nhau kể chuyện hằng đêm, có câu chuyện kể đi kể lại đến hai ba lần nghe thành thuộc lòng như câu chuyện của chính mình vậy.
Đêm khuya, chúng tôi trải ni-lông lên sàn để nằm, căn nhà nhỏ mà hơn năm chục con người vẫn thấy thật rộng, những lời thủ thỉ mãi không dứt. Tôi nghe ngoài kia con tàu đang thở hổn hển cùng sóng biển sau chặng hành trình dài hàng nghìn cây số. Nghĩ đến ngày mai trở về đất liền, còn ở lại những người lính này, những ánh mắt, đôi tay, trái tim nồng nàn này mà thương biết bao nhiêu. Họ tự nguyện hy sinh tuổi trẻ, tình yêu, cuộc sống và đôi khi cả mạng sống của mình để gìn giữ, bảo vệ quyền chủ quyền lãnh hải, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Có họ, non sông mãi vững bền vạn thuở, ngư dân yên lòng nặng lưới đi về… Họ, những người lính DK1!
Bút ký của LÝ HỮU LƯƠNG