QĐND - Tình cảm thẩm mỹ là những rung động sâu sắc, trực tiếp của con người trước các hiện tượng thẩm mỹ khách quan trong thiên nhiên, đời sống, nghệ thuật, được coi là một trong những biểu hiện rõ nhất của tính người để phân biệt con người văn hóa và thiếu văn hóa, thậm chí phân biệt giữa con người với động vật. Nó được biểu hiện cụ thể ở các trạng thái tình cảm như yêu mến, say mê cái đẹp; căm ghét cái ác; khinh miệt, ghê tởm cái xấu, cái thấp hèn; khát vọng vươn lên cái lý tưởng; phê phán cái đáng cười… Như vậy, nó gắn liền với các phạm trù mỹ học, đạo đức học và rõ ràng là có giáo dục tình cảm thẩm mỹ đúng đắn thì mới hướng con người ta đến với những điều hay lẽ phải, cự tuyệt cái lỗi thời, hèn kém.

Thời gian qua, một bộ phận giới trẻ không có kiến thức, hiểu biết đúng đắn về thẩm mỹ nói chung, tình cảm thẩm mỹ nói riêng. Đó là một trong những lý do tác động không thuận đến sự hình thành, phát triển nhân cách, tâm lý giới trẻ. Có thể nêu ra một vài nguyên nhân làm giảm sút, phai nhạt tình cảm thẩm mỹ của một bộ phận thanh thiếu niên ở nước ta hiện nay.

Một là, do tác động những mặt trái của cơ chế thị trường. Nói tới thị trường là nói tới kinh doanh, quy luật cung cầu, lợi nhuận… Những điều này xa lạ với tính cách truyền thống người Việt trọng lễ nghĩa, luôn có xu hướng vươn tới những giá trị tinh thần cao cả hơn những gì là vật chất phàm tục đời thường. Hơn nữa, sống trong cơ chế ấy thì người ta buộc phải thích ứng với nó. Trước đó, sống trong cảnh bao cấp, trước đó nữa là “tự cung tự cấp” (thời phong kiến), đến nay con người ta phải đối chọi với guồng quay đến chóng mặt của cuộc sống vật chất, thì sao tránh được cảnh “xây xẩm mặt mày”, hoang mang, thiếu tự chủ!

Các bạn trẻ Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì tự nguyện gom nhặt rác để góp phần bảo đảm vệ sinh môi trường sạch đẹp trong Lễ hội Đền Hùng. Ảnh: PHÚC NỘI

Hai là, chủ nghĩa kỹ trị lên ngôi sẽ đem lại nguy cơ con người bị nhạt dần nhân tính. Ngay ở lĩnh vực công nghệ thông tin thì cũng thấy một bộ phận lứa trẻ đang tự nguyện làm nô lệ cho những trang mạng xã hội với bao tiện năng thu hút, hấp dẫn. Mặt trái của công nghệ là làm cho người ta lười về tư duy, nghèo về tình cảm, đơn điệu về lối sống, và như vậy sẽ dẫn đến sự trống rỗng về tư tưởng, cùn mòn về cá tính, đánh mất bản sắc, phẩm chất nhân cách cá nhân.

Ba là, tình trạng “xâm lăng văn hóa” bằng con đường phim ảnh, sách báo và nhất là internet đang biến một bộ phận người trẻ Việt thành những người xa lạ ngay trên chính quê hương mình. Internet là một thành tựu của nhân loại, cực kỳ tiện dụng cho những ai làm chủ được nó, để tra cứu, để tham khảo, để học tập nâng cao trình độ, mở rộng tầm nhìn. Nhưng mặt trái của nó cũng rất nguy hiểm: Trẻ em tò mò xem những trang độc hại về giới tính, bạo lực, kẻ xấu lợi dụng tung ra những thông tin sai trái, lệch lạc...

Bốn là, xu hướng đô thị hóa quá nhanh sẽ gây mất cân đối giữa nông thôn và thành thị về kinh tế, văn hóa... Để kiếm miếng ăn người ta phải phá rừng làm rẫy, thế là thảm thực vật quý giá bị bóc đi. Để thêm nguồn điện năng người ta phải ngăn sông làm thủy điện, thế là hệ sinh thái ngàn đời bị phá vỡ... Tất cả những điều ấy là nguyên nhân khiến thiên tai ngày một nhiều hơn. Để thêm nguồn lương thực, thực phẩm, người ta bất chấp cảnh báo về an toàn, nuôi gia súc, gia cầm bằng thức ăn tăng trọng, trồng rau củ thì bón thuốc kích thích... Thế là chất độc hại theo đường ăn uống cứ ngấm dần vào cơ thể. Con người đông lên thì không gian sinh hoạt ngày một thu hẹp. Đất đai, nhà cửa, ruộng vườn ngày một đắt đỏ. Ngày trước người ta có thể tặng láng giềng cả sào đất vườn, ngày nay người ta tranh nhau từng mi-li-mét đất. Con người đang tự mình đày đọa mình, tự mình gây ra những tai họa và cũng tự mình phải đương đầu, phải chịu đựng chính những tai họa ấy.

Con người bị hít thở khói bụi công nghiệp, phải nghe bao tiếng ồn, phải chứng kiến bao tai họa của nhân tai và thiên tai. Cả thế giới này như dồn lại, co lại, chồng lấn, chèn ép nhau. Thế là cả không gian vật lý và không gian tâm lý đều tạo ra cảm giác chật chội. Mà chật chội thì thường gây khó chịu, căng thẳng. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến con người dễ bị bức xúc trước một vấn đề có khi chỉ là nhỏ nhặt. Từ bức xúc dẫn đến manh động là khoảng cách không xa. Thêm nữa, nhìn từ góc độ môi trường sinh thái tự nhiên, Trái Đất ngày một nóng lên, cộng với nạn lạm dụng thuốc hóa học trong nông nghiệp, lạm dụng thuốc kháng sinh trong y tế… cũng là nguyên nhân gây nên những dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có căn bệnh thần kinh dễ đẩy con người vào tình trạng bản năng thú tính.

Năm là, sự thoái hóa biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trong đó đáng báo động nhất là “quốc nạn” tham nhũng đang hoành hành. Không ít cán bộ mà sự giàu có tỷ lệ thuận với vị trí chức quyền. Theo lẽ thông thường thì chỉ có thể giáo dục, chinh phục được người khác bằng chính nhân cách của mình. Nếu những nhân cách tồi lại ở vị trí lãnh đạo sẽ làm xói mòn niềm tin, tình cảm của người dân với lý tưởng tốt đẹp, trong sáng của Đảng ta đã đề ra.

Sáu là, do giáo dục còn nhiều bất cập. Chúng ta ở trong tình trạng quá lâu với triết lý “học để mà thi” nên có thể học sinh phổ thông thi quốc tế đạt nhiều giải thưởng, thi tốt nghiệp trong nước thì tỷ lệ cực cao, nhưng thiếu thực chất. Ở các trường đại học và dạy nghề vẫn giữ triết lý ấy nên sinh viên ra trường kém về kỹ năng lao động, khó xin việc. Nhìn chung, mặt bằng chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta vẫn thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực. Nhiều sinh viên về làm việc ở các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới năng suất lao động của người Việt Nam rơi vào mức thấp nhất châu Á.

Giáo dục ở nước ta cơ bản chưa thoát ra khỏi cách dạy truyền thống theo kiểu “thầy đọc trò ghi”. Ở cấp tiểu học chữ trò còn đẹp nhưng đến cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông thì do phải chép lời thầy cô giảng nên trò phải chép nhanh, viết ẩu cho kịp mà dẫn đến chữ xấu. Thành ra thầy cô lại là một nguyên nhân đẩy trò mình xa dần với cái đẹp, vốn là một nhiệm vụ giáo dục-giáo dục năng lực cảm nhận, sáng tạo cái đẹp. Mục đích giáo dục xét kỹ vẫn là nền giáo dục dạy con người ta biết “vâng lời”, thầy nói gì trò làm theo, trái lời thì cho là “thiếu ý thức” hoặc nặng nề hơn là “mất dạy”. Thành ra học trò có thể ngoan nhưng trì trệ về ý thức, xơ cứng về tư duy, ít có tính sáng tạo, kém năng động trong việc phát huy tìm tòi cái mới. Vì không kích thích được sự say mê sáng tạo nên người học chán nản, học đối phó, dẫn đến ngại học, lười học… Nhiều nhà trường, giáo viên hiện nay vẫn thiên về dạy lý thuyết, nhồi nhét lý thuyết. Chứng minh ngay một việc dạy ngoại ngữ thì thiên về phân tích ngữ pháp ít chú ý tới thực hành nên người học dịch trên văn bản có thể là tốt nhưng giao tiếp xã hội thì lúng túng, nghe kém, phát âm sai nhiều. Ở trường phổ thông lại ít chú ý tới dạy kỹ năng sống. Không chỉ có lỗi ở phía nhà trường mà có cả áp lực từ phía gia đình: Phải luyện học, chăm học, ưu tiên gần như tuyệt đối cho việc học để thi rồi sau này làm công chức. Đấy chính là biểu hiện một quan niệm hết sức cổ hủ, lạc hậu “học để làm quan” từ thời phong kiến xa xưa còn rơi rớt lại.

Nguyên nhân làm phai nhạt tình cảm thẩm mỹ của giới trẻ đã được chỉ ra. Vấn đề hiện nay là phải tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao tình cảm thẩm mỹ cho thanh thiếu niên. Đó là một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay nhằm góp phần xây dựng môi trường văn hóa xã hội lành mạnh và qua đó, góp phần xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực cao đẹp cho thanh thiếu niên.

PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ (còn nữa)