Riêng tôi rất xúc động và không thể nào quên khoảng thời gian bi tráng của 40 năm về trước. Số là, ngay sau ngày 7-1-1979, tòa soạn Báo Quân đội nhân dân cử tôi và hai anh: Hồng Phương, Thiều Quang Biên đi máy bay vào TP Hồ Chí Minh, rồi bay tiếp sang Phnom Penh để kịp theo dõi và phản ánh tình hình nước bạn. Chuyến đi này thật nhiều cảm động, nhất là hình ảnh các chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam, những người đã dũng cảm chiến đấu và hy sinh vì nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng, giúp bạn xem như giúp mình.

Đi đi, lại lại Campuchia đến 3 lần trong vòng một tháng đầu năm 1979 ấy và chuyến trở lại đất nước Chùa tháp đúng một năm sau đó, tôi đã có dịp gặp gỡ, trò chuyện với rất nhiều chiến sĩ tình nguyện Việt Nam ngay tại nơi đóng quân, ở quanh Phnom Penh và đầu năm 1980 thì lên tận vùng Pailin-những địa danh xa tít trong rừng sâu biên giới Campuchia-Thái Lan, như khu “20 nhà”, “7 nhà”... Tôi đã cùng chia sẻ với các chiến sĩ những bữa cơm dã chiến toàn vần “ục” như: “Gạo mục”, “muối cục”, “khô mục”… trong lúc luôn luôn bị tàn quân Pol Pot “phục”… lắng nghe và ghi chép bao nhiêu câu chuyện chiến đấu của các anh để giữ yên lành cho cuộc sống của nhân dân nước bạn.

Với chất liệu quá phong phú ấy, tôi đã viết nhiều bài báo, in nhiều tấm ảnh để nói về những ngày tháng ấy. Nhưng là một nhà thơ, ngay từ những ngày đầu tiên đặt chân lên đất Campuchia, đặc biệt là sau khi chụp ảnh thi thể của những người dân vô tội ở nhà tù Tuol Sleng và đến thăm kỳ quan Ăngco… tôi đã biết là không thể làm những bài thơ ngắn bình thường và một trường ca lớn đã dần hình thành trong tôi. Và thế là bản trường ca “Sông Mê Công bốn mặt” ra đời.

Dịp này, những kỷ niệm của 40 năm trước lại ùa về trong tôi và một vài đoạn nói về những người lính tình nguyện của chúng ta như những lời tri ân tâm huyết nhất của một người lính cầm bút đối với đồng đội mình.

 NGỌN THÁP XANH

(Trích trường ca “Sông Mê Công bốn mặt”)

………

Sau câu chào vồn vã "Sóc-xơ-bai"

chúng tôi ngồi lại bên nhau quanh bát rượu nồng thốt nốt

những người lính của hai dân tộc

gặp nhau giữa chặng hành quân

anh bộ đội Việt Nam, tay quấn vòng băng

nước da nâu dân chài xứ Nghệ

mái tóc anh rối bù như thể

vừa đi qua suốt trận gió Lào

nhấp từng ngụm rượu khát khao

anh uống vị ngọt ngào từng giọt

để bóng mát của một rừng thốt nốt

thấm vào lòng chếnh choáng mùi men

những thân cây lực lưỡng và đen

như dáng người Campuchia mạnh mẽ

sống cao thượng và sáng trong tình nghĩa

cho anh quên bao nắng gió trên đường

ôi con đường dẫn đến Phnôm Pênh

đâu phải con đường rải thảm

cơn bão lửa những trái mìn định hướng

không nguôi thổi dọc đội hình

và đồng đội của anh

có những đứa đã nửa đường nằm lại

ở Xa Mát, Tây Ninh

ở An Giang, Bảy Núi

ở Suông Chúp

ở Tà Keo

ở Rát-ta-na-ki-ri, và Mông-run-ki-ri

ở Công-pông-xom, Cô-công và Puốc-xát

anh nhớ hết những tên người tên đất

xa lạ và quen thân

những tấm bia như cột mốc bên đường

trên chặng hành trình người lính

anh có thể quên đi nhiều trận đánh

nhưng làm sao quên được một vết thương.     

              * * *         

Lần ấy ở Svây-riêng

bọn Pol Pot dàn quân sau bờ ủi

(những hệ thống kênh mương thủy lợi

chúng làm ra với mưu kế lâu dài

ủi ruộng nương thành những pháo đài

chất xương máu nhân dân làm công sự)

anh thận trọng bò lên cửa mở

với đòn bộc phá năm cân

cánh đồng mênh mông không chỗ che thân

dù chỉ là ngọn cỏ

súng vẫn nổ, nhằm vào anh súng nổ

thịt da anh rách nát tím bầm

anh đang lặng lẽ tiến gần

chiến thắng và cái chết

anh phải chọn trong phút giây quyết liệt

cuộc sống cho mình

hạnh phúc của nhân dân

và điều này anh cũng không quên:

Anh đang bò trên đất đai người khác

đã tình nguyện thì không hèn nhát

Tổ quốc xa vời, Tổ quốc lại kề bên

từ phút này Tổ quốc có hai tên

Việt Nam

Campuchia

anh gọi

và hôm ấy cả sư đoàn tràn qua bờ ủi

không ai còn nhận được ra anh

những vòng băng tráng xóa cả thân mình...

Chúng tôi lại ra đi

người mới đến thay chân người vắng mặt

đội ngũ sư đoàn dồn lên phía trước

lại ngược rừng truy quét lũ tàn quân

người đi Poi-pét

người tới Xi-xô-phôn

người về Pai-lin, Xăm-lốt

dấu chân của một sư đoàn chủ lực

mùa khô này đạp nát dãy Các-đa-môn

mùa khô này khắp biên giới Campuchia, Thái Lan

trời không gợn mây, đất không giọt nước

lá khộp cháy trên đầu như bó đuốc

tảng đá màu đen, thân cây màu đen

lẩn sau đá sau cây thằng phỉ cũng đen

chúng luồn lủi như thú rừng

chúng bám dai như đỉa

bạn tôi chết vì một thằng bắn tỉa

mắt trợn trừng tay níu lấy trời xanh

một đứa khác chết vì mìn

đứa thứ ba vì khát

lời trăng trối của nó là-nước, nước!

môi tím bầm, mạch máu cũng khô cong.

  Chợt hiện ra sông K'long K'lum

con rắn xanh trườn giữa hai bờ đá

chúng tôi bồi hồi lắng nghe con gió lạ

thổi về từ cửa vịnh Thái Lan

ngọn gió mang hơi biển cả nồng nàn

thổi phồng căng những lồng ngực trẻ

mắt xa xăm anh dân chài xứ Nghệ

thốt kêu lên như mới gặp lần đầu

biển quê anh và mặt trời trước mặt

sao bây giờ biển lại ở đằng sau

trời ở đâu và đất ấy là đâu

đây có phải đã cùng trời cuối đất

chợt gặp dưới chân mình cột mốc

tảng đá xanh lưu lạc ở trong rừng

mới hiểu mình đã để lại sau lưng

tròn vẹn một non sông nước bạn

những người lính Campuchia cách mạng

ôm chúng tôi nước mắt đầm đìa

lấy lưỡi lê vạch lên cột mốc

cái dòng chữ ngang tàng thách thức:

Nước Cộng hòa nhân dân Campuchia...!

 ANH NGỌC