QĐND -   “Ở phố Nagasumicho, Tokyo, có một ngôi chùa tên là Shingyouji. Ngôi chùa không to lớn nhưng tương đối thuộc loại cổ nhờ có tượng gỗ của nhà sư bậc thầy Ni-chi-rô. Vào mùa thu năm Minh Trị thứ 22, người ta thấy có một bé trai sơ sinh bị bỏ trước cổng chùa. Hồi đó, nhà sư trụ trì ngôi chùa tên Ta-mu-ra Ni-sô. Một hôm, khi nhà sư đang làm lễ thì người gác cổng đến báo có một đứa bé bị bỏ rơi. Đang đối diện trước tượng Phật, nhà sư thản nhiên nói: “Mang đứa bé vào đây đi”. Khi người gác cổng, vẻ mặt lo lắng, ẵm đứa bé đến thì nhà sư liền ôm nó vào lòng rồi vỗ về: “Đứa bé khấu khỉnh làm sao! Đừng khóc. Đừng khóc. Ta sẽ nuôi con mà”.

Rồi sau đó, nhà sư đặt tên đứa bé là Y-u-nô-su-kê và bắt đầu nuôi nấng nó. Kể từ thời Minh Trị trở đi, vì nhà chùa không có phụ nữ nên việc nuôi trẻ nhỏ không phải là chuyện dễ dàng. Một mình hòa thượng Ni-sô phải ẵm bồng cho đến chuyện cho đứa bé uống sữa trong những lúc nhà sư rảnh rỗi không phải đọc kinh kệ. Trong thâm tâm nhà sư cũng muốn cho thằng Y-u-nô-su-kê được gặp cha mẹ ruột. Mỗi khi nhà sư thuyết pháp, thỉnh thoảng trích dẫn điển tích Trung Hoa hay Nhật Bản, rồi bằng một giọng chân tình mà giảng dạy rằng không quên tình mẫu tử tức là đã báo ơn Phật vậy.

Rồi một ngày đông năm Minh Trị thứ 27, lúc mà cả nước đang sôi sục trước tin đồn Nhật Bản và nhà Thanh bên Trung Quốc sắp đánh nhau, khi nhà sư Ni-sô trở về phòng riêng thì có một người đàn bà tuổi trạc gần bốn mươi, dáng vóc thanh lịch bước theo. Mới thấy mặt mũi thằng bé Y-u-nô-su-kê thì người đàn bà không ngần ngại liền chắp tay trước nhà sư, rồi cố nén giọng run run bà ta nói thẳng rằng: “Tôi là mẹ ruột của đứa bé này”. Nhà sư Ni-sô sững người ngạc nhiên. Rồi không đợi cho phép, người đàn bà mắt luôn nhìn xuống sàn, trân trọng bày tỏ lòng cảm ơn của bà đối với nhà sư đã nuôi dưỡng thằng bé Y-u-nô-su-kê. Bà ta nói như đã học thuộc những sự xúc động mãnh liệt trong lòng bà ta có thể thấy qua tấm thân run rẩy.

Sau khi người đàn bà nói một hồi, nhà sư Ni-sô giơ quạt lên ngắt lời rồi yêu cầu bà ta trước tiên hãy nói cho nghe nguyên cớ nào bà đã phải bỏ đứa bé. Nghe nói vậy, người đàn bà bắt đầu kể câu chuyện: “Cách đây năm năm, chồng bà buôn bán gạo ở phố Tawaramachi nhưng vì chuyện làm ăn thất bát nên gia đình phải vội vàng dọn nhà từ Tokyo xuống Yokohama như là để trốn nợ. Và trong tình trạng đó, thằng bé mới sinh thật không đúng lúc. Hơn thế nữa, người mẹ lại hầu như không có một giọt sữa cho con bú. Đêm cuối cùng phải rời Tokyo, hai người đến trước cổng chùa Shingyouji, đặt thằng bé còn đỏ hỏn ở đó. Ở Yokohama, trong vòng 2 năm, hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn, đời sống dần khấm khá. Năm sau, hai vợ chồng sinh được một bé trai kháu khỉnh. Tuy nhiên hạnh phúc đó không kéo dài được bao lâu. Người chồng mắc bệnh thương hàn nằm liệt giường không đến một tuần thì ngã lăn ra chết. Chưa đầy trăm ngày sau thì đứa con đột nhiên bị bệnh kiết lỵ rồi đi theo luôn. Bà như khùng như điên, rồi từ đó suốt nửa năm bà sống như người mất hồn vậy. Khi nỗi buồn vơi đi một chút, chuyện bà nghĩ đến đầu tiên là đi gặp đứa con trai đầu mà bà đã bỏ hồi xưa. Bà liền đáp tàu hỏa đi Tokyo, rồi đến thẳng chùa. Lúc bà ta đến thì đúng vào buổi sáng ngày 16 - ngày thuyết pháp mỗi tháng. Đến chùa, bà ta định đến ngay tăng phòng để hỏi tông tích thằng nhỏ. Nhưng khi đang thuyết pháp giữa chừng thì làm sao mà bà ta gặp nhà sư trụ trì được. Do đó bà ta phải vào chính điện đang đông nghẹt tín đồ, bồn chồn tai lắng nghe thuyết pháp mà hồn thì để đâu đâu. Nói là nghe chứ thực sự là bà ta chỉ cầu mong cho buổi thuyết pháp xong thật sớm. Nhưng ngày hôm ấy, nhà sư Ni-sô đã trích dẫn điển tích về một nữ thần tình cờ gặp lại năm trăm người con trai của bà, để rồi tận tình thuyết minh rằng ân tình giữa mẹ và con rất là cao quý. Số là nữ thần đẻ năm trăm trứng nhưng tất cả đều trôi sông đến một nước lân bang và được nhà vua nước đó nuôi nấng. Lớn lên, năm trăm lực sĩ lại đi tấn công thành trì của nữ thần mà không biết đó là thành của mẹ mình. Nghe nói vậy, nữ thần liền leo lên đỉnh thành rồi nói vọng xuống: “Ta là mẹ của các con. Bằng chứng đây!” Nói xong, bà kéo vú ra rồi bóp cho sữa chảy. Từ ngực của bà đứng trên đỉnh thành cao, sữa chia ra năm trăm dòng rót ngay vào miệng của năm trăm lực sĩ, không thiếu một ai. Đang ngồi nghe thuyết pháp một cách miễn cưỡng, câu chuyện ngụ ngôn xưa đã làm người đàn bà bất hạnh xúc động mạnh. Chính vì vậy sau khi nghe thuyết pháp xong, mắt còn đẫm lệ, bà ta liền ra khỏi chính điện rồi theo hành lang vội vàng đến tăng phòng của nhà chùa”.

Nghe xong rõ ràng đầu đuôi câu chuyện, nhà sư Ni-sô gọi thằng bé Y-u-nô-su-kê để nó thấy mặt mẹ nó lần đầu tiên sau năm năm bị bỏ rơi. Có lẽ nhà sư đã tự nhiên cảm nhận rằng những lời lẽ bà ta nói ra là thật.

Y-u-nô-su-kê được mẹ dẫn về sống ở Yokohama. Cuộc sống tuy đạm bạc nhưng không cực khổ gì cho lắm".

Sau khi chấm dứt câu chuyện dài, người khách cầm tách trà lên nhưng không uống mà nhìn thẳng vào mặt tôi rồi nói giọng trầm buồn: “Đứa con bị bỏ rơi đó chính là tôi đây”.

Tôi yên lặng gật đầu, rót thêm nước nóng vào bình trà. Mặc dù đây là lần đầu tiên tôi gặp người khách, tôi cũng đã mường tượng được rằng câu chuyện về đứa con bị bỏ rơi nầy là chuyện thật về cuộc đời thủa thơ ấu của bạn Ma-su-ba-ra Y-u-nô-su-kê.

Im lặng một chập, tôi hỏi người khách: “Bây giờ mẹ anh vẫn khỏe mạnh chứ?”. “Không, mẹ tôi mất cách đây hai năm. Nhưng mà người phụ nữ mà tôi kể cho anh nghe không phải là mẹ ruột của tôi đâu”.

Thấy tôi ngạc nhiên, người bạn kể: “Đương nhiên là chuyện người chồng mở cửa hàng buôn bán gạo ở phố Tawaramachi hoặc chuyện hai người đến Yokohama để trốn nợ rồi sống ở thành phố này là chuyện có thật. Tuy nhiên, chuyện bỏ con lại chùa là chuyện bịa đặt! Số là đúng một năm trước khi mẹ tôi mất, do công chuyện làm ăn, tôi đã đi khắp các phố ở Nigata. Lúc đó tôi có dịp đi cùng chuyến tàu lửa với một người chủ tiệm bao bì, láng giềng của mẹ tôi khi bà sống ở phố Tawaramachi. Theo lời ông ta kể, mặc dù tôi không có hỏi, thì hồi đó mẹ tôi sinh được một đứa bé gái nhưng đứa bé sơ sinh đã chết đi trước khi mẹ tôi đóng cửa tiệm. Rồi sau đó khi tôi trở về Yokohama, không cho mẹ tôi biết, tôi liền xin bản sao của tờ khai hộ tịch thì đúng như là ông chủ tiệm bao bì nói, đứa bé sinh ra lúc mẹ tôi cư ngụ ở phố Tawaramachi là đứa bé gái nhưng ba tháng sau thì mất. Không biết mẹ tôi đã suy nghĩ như thế nào mà lại bịa đặt ra chuyện bỏ con để nuôi dưỡng tôi, một đứa bé không phải là ruột thịt của bà. Rồi trong vòng hơn 20 năm qua, bà đã tận tụy nuôi dưỡng tôi”.

 “Lý do nào mà bà đã làm như vậy. Tôi đã suy nghĩ về câu hỏi này không biết bao nhiều lần rồi. Nhưng mặc dù tôi không thể biết hết sự thật, tôi nghĩ một lý do thỏa đáng nhất là những lời giảng dạy của nhà sư Ni-sô đã làm cho mẹ tôi, một người vợ góa chồng và một người mẹ mất con, hết mực cảm động. Tôi nghĩ có lẽ là mẹ tôi, khi nghe những lời thuyết pháp đó, đã quyết định đóng vai thế cho người mẹ ruột của tôi mà tôi không hề biết”.

Tôi liền hỏi tiếp: “Anh có nói với mẹ anh rằng anh không phải là con ruột không?”

 “Không. Tôi không nói. Bởi vì nói như vậy thì tội nghiệp cho mẹ tôi quá. Cho tới khi mẹ tôi mất, bà cũng không hề nói với tôi về chuyện đó. Có lẽ mẹ tôi cũng nghĩ rằng nói ra thì chỉ tội cho tôi. Thật tình mà nói, kể từ khi tôi biết tôi không phải là con ruột của bà, tình cảm của tôi đối với bà đã thay đổi nhiều lắm”.

Tôi nhìn thẳng vào mắt người bạn: “Thay đổi như thế nào?”

 “Tôi yêu thương mẹ tôi nhiều hơn trước. Từ khi biết được bí mật đó, là đứa con rơi, tôi đã nghĩ là bà là một bà mẹ cao cả hơn so với bình thường”.

Người khách chân tình trả lời về mẹ mình; anh không biết rằng chính câu trả lời đó khiến anh cũng là một người con có hiếu hơn nhiều người con bình thường khác.

Truyện ngắn của RY-U-NÔ-SU-KÊ A-KU-TA-GA-OA (Nhật Bản)

VIỆT PHONG dịch