QĐND - Đã đến lúc công việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa biển đảo ở nước ta phải được nhận thức trên một tầm cao mới, đồng thời triển khai mạnh mẽ các giải pháp hữu hiệu cho việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa biển đảo. Đó là nhận định chung của các nhà khoa học, nhà quản lý, nghiên cứu văn hóa, lịch sử nêu ra trong cuộc Hội thảo khoa học “Văn hóa biển đảo-bảo vệ và phát huy giá trị” được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia vừa tổ chức tại Hà Nội.
Nhận diện giá trị văn hóa biển đảo
Có chiều dài bờ biển lên đến 3.260km với trên dưới 3000 hòn đảo lớn nhỏ, Việt Nam là một quốc gia chịu nhiều tác động của biển trong suốt chiều dài lịch sử. Do đó, kho tàng di sản văn hóa biển đảo của Việt Nam được nhận định rất dày dặn và đa dạng. Thuộc về di sản văn hóa vật thể, chúng ta đã phát hiện được hàng loạt di chỉ cư trú, sinh hoạt của cư dân thời Tiền sử với những đặc trưng có thể khái quát thành những nền văn hóa như: Hạ Long, Bàu Tró, Sa Huỳnh… Ở những giai đoạn tiếp theo, bên cạnh những di tích phản ánh cuộc sống làm ăn hằng ngày của người dân, còn được lưu giữ trong các vạn chài truyền thống, di tích về các thương cảng cổ là những di sản vô cùng đặc sắc. Trong số các thương cảng nổi tiếng như: Vân Đồn (Quảng Ninh); Thanh Hà (Huế); Hội An (Quảng Nam); Nước Mặn (Bình Định); Oc Eo (An Giang)… Đô thị thương cảng Hội An đã được UNESCO đưa vào danh mục di sản văn hóa thế giới. Một loại hình di sản đặc biệt của văn hóa biển đảo là các con tàu đắm và những vật dụng dưới đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đây không chỉ là những di sản quý báu, có giá trị khoa học, văn hóa, kinh tế cao mà còn có ý nghĩa trong việc khẳng định chủ quyền quốc gia.
 |
|
Ngư dân đảo Lý Sơn thả mô hình thuyền cùng các hình nộm binh lính trong Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, nhằm tri ân dân binh trong đội Hoàng Sa năm xưa ra dựng bia, cắm mốc khẳng định chủ quyền. Ảnh: Đông Hà.
|
Dạng thức phi vật thể của di sản văn hóa biển đảo cũng vô cùng phong phú, đó là kinh nghiệm sống và làm ăn của cư dân biển đảo được truyền lại từ nhiều thế hệ, bao gồm kỹ thuật chế tạo công cụ, phương tiện đi lại trên biển, nghệ thuật bảo quản, chế biến hải sản… Trong các di sản phi vật thể, lễ hội là một sáng tạo văn hóa đặc sắc. Nó không chỉ phản ánh một cách sinh động cuộc sống của cư dân biển đảo, thể hiện những ước vọng của họ về một tương lai tốt đẹp mà còn thể hiện trong đó cuộc đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên khắc nghiệt và vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia thiêng liêng. Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa của nhân dân huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) gắn với việc thực thi chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa là ví dụ điển hình…
Được nhận diện và xác định là loại hình di sản văn hóa đặc biệt quan trọng, nhưng theo GS, TSKH Vũ Minh Giang, Phó chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, có một thực tế là cho đến những năm gần đây, vì nhiều lý do, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa biển đảo chưa được chú trọng đúng mức. Các di sản chìm dưới biển nước, chúng ta chưa tiến hành được một chương trình nghiên cứu, khai quật nào bài bản. Công việc “khai quật” một số con tàu đắm vừa qua thực chất mới chỉ là trục vớt các cổ vật, được tiến hành bởi các công ty tư nhân với yêu cầu kinh doanh luôn là ưu tiên hàng đầu. Các hang động ngập nước hầu như chưa được nghiên cứu. Sự chậm trễ xây dựng và phát triển khảo cổ học dưới nước ở nước ta là một minh chứng rất thuyết phục cho sự thiếu quan tâm này. GS Vũ Minh Giang hy vọng, cuộc hội thảo lần này là bước khởi đầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng, để các đơn vị nghiên cứu, các cơ quan quản lý và đặc biệt là kinh nghiệm của các địa phương đưa ra trong việc xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa biển đảo từ góc nhìn của mình. Các ý kiến cho chúng ta thấy được bức tranh về hiện trạng và gợi mở những việc phải làm trong tương lai.
Gắn bảo tồn di sản, bảo vệ chủ quyền với phát triển du lịch
Trong số 69 di sản văn hóa phi vật thể được Bộ VHTTDL quyết định đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, có 4 di sản thuộc văn hóa biển đảo, gồm: Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa (huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi); Lễ hội Cầu ngư (Khánh Hòa); Lễ hội Nghinh Ông (Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh) và Lễ hội cúng biển Mỹ Long (Trà Vinh), bên cạnh đó còn nhiều lễ hội của ngư dân các tỉnh, thành phố tổ chức hằng năm. Việc trưng bày di sản văn hóa biển đảo nhiều năm qua cũng đã được các bảo tàng địa phương triển khai, riêng đợt trưng bày, triển lãm về văn hóa biển đảo năm 2014 đã có gần 40 bảo tàng hưởng ứng, thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng. Trên đảo Lý Sơn đã có riêng một nhà trưng bày về chủ quyền và việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Trong thời gian tổ chức lễ hội, trưng bày, triển lãm cùng các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa biển đảo nói trên, thực tế đã cho thấy kết quả tích cực của sự gắn kết hiệu quả phục vụ phát triển du lịch. Nổi bật là những khu di sản vịnh Hạ Long, đô thị cổ Hội An đã đưa tới sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động du lịch, với nguồn thu hàng nghìn tỷ đồng. Tại Hội An, hoạt động du lịch, dịch vụ đã mang lại nguồn thu chiếm tới hơn 60% thu nhập hằng năm của thành phố. Bên cạnh đó là những “Hành trình di sản văn hóa miền Trung”, “Năm du lịch quốc gia di sản văn hóa Bắc Trung Bộ-Thừa Thiên Huế”, “Năm du lịch quốc gia Nam Trung Bộ-Phú Yên”… đã trở thành những điểm nhấn quan trọng trong sự phát triển ngành du lịch, định hình rõ vị trí của một nền kinh tế biển, không chỉ góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, mà còn tạo “cú hích” cho sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của nhiều địa phương tham gia hoạt động này.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển du lịch biển đảo ở nước ta cũng nảy sinh một số vấn đề thể hiện thiếu tính bền vững về kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường, bao gồm cả việc bảo đảm chủ quyền quốc gia. TS Nguyễn Văn Lưu (Bộ VHTTDL) nhận định, do nhận thức xã hội về du lịch biển đảo còn nhiều bất cập, hệ thống pháp luật về du lịch biển đảo và các lĩnh vực có liên quan chưa hoàn thiện; sự bất cập trong đầu tư phát triển, nhất là đầu tư hạ tầng, các khu, trọng điểm du lịch biển đảo; xung đột trong sử dụng lãnh thổ…
PGS, TS Đặng Văn Bài, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia cho rằng, phát triển du lịch, phát triển kinh tế phải luôn song hành với bảo tồn và phát huy văn hóa. Do đó, nhiệm vụ hàng đầu đặt ra là phải gắn bảo tồn di sản văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội, bằng các hình thức tuyên truyền phổ biến kiến thức, giáo dục, bồi dưỡng nhân cách và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho mục tiêu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên biển đảo, mà cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đối tượng đang được quan tâm.
Theo nhiều ý kiến của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và quản lý, Bộ VHTTDL cần đóng vai trò của cơ quan điều phối xây dựng chương trình tổng thể về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa biển đảo trình Chính phủ phê duyệt, nhằm tạo lập sự hợp tác liên ngành từ Trung ương đến địa phương. Bởi đây không chỉ là hoạt động thuần túy văn hóa, mà còn là trách nhiệm vẻ vang mà các bậc tiền nhân đã ký thác cho thế hệ hôm nay: “Bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên đất liền và ở vùng biển”. Nhiệm vụ đó, theo PGS, TS Đặng Văn Bài, cũng là động lực thúc đẩy mọi ngành, mọi người dân thay đổi tư duy, mạnh dạn vượt qua hạn chế của lối “tư duy thuần nông”, sớm chuyển sang lối tư duy hiện đại là “tư duy biển đảo”, tư duy đại dương và tư duy hội nhập quốc tế.
VƯƠNG HÀ