Nhìn rộng ra tỉnh Bình Định được người đời gọi là “đất võ trời văn”, quả thực là vùng đất địa linh nhân kiệt và hơn hết đây là nơi giao thoa giữa nhiều tầng văn hóa, lưu dấu ấn với bao di tích lịch sử, bao huyền thoại lưu truyền cả trăm năm. Trải qua thời gian, thời tiết khắc nghiệt và bao biến động lịch sử, những dấu tích về một vùng di sản vẫn còn đó: Những tháp Chăm ngàn năm tuổi sừng sững trên đồi cao, thành quách cổ kính, những bài võ và cả những món ăn ngon lạ.
Anh Minh Đức - hướng dẫn viên du lịch của chúng tôi gợi ý: “Trước khi lên huyện Tây Sơn, ta dừng lại ở thị xã An Nhơn chút xíu, có dấu tích của “Tây Sơn tam kiệt” ở đây”. Chúng tôi đến thẳng thành Hoàng Đế, nơi đóng đô của Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc sau khi ba anh em chia nhau cai quản ba miền. Anh Đức chỉ cho chúng tôi mấy con voi, sư tử đá có phong cách tạo hình rất lạ không giống mô tuýp mỹ thuật của người Việt. Hóa ra, thành Hoàng Đế được Nguyễn Nhạc xây trên nền móng thành Vijaya (tức Đồ Bàn) của người Chăm. Thành xưa hẳn rất rộng lớn, mỗi cạnh của thành dài hàng cây số bởi xa xa kia là tháp Cánh Tiên nhô lên trời xanh được người Chăm xây từ thế kỷ XII, nằm giữa trung tâm thành Đồ Bàn xưa. Những gì còn lại thật ít ỏi, tập trung ở cấm thành với tường bao đá ong, hào cạn, hồ bán nguyệt. Nhờ có hướng dẫn viên, chúng tôi mới biết nơi đây còn có mộ danh tướng Võ Tánh của vua Gia Long đã tuẫn tiết giữ thành Quy Nhơn. Khi bị quân Tây Sơn vây hãm, để giữ chân đối phương, giúp Nguyễn Ánh đánh úp Phú Xuân, Võ Tánh quyết bám thành không tháo chạy. Quân Tây Sơn chiếm lại được thành Hoàng Đế nhưng chính cuộc vây hãm kéo dài này dẫn đến việc mất Phú Xuân, sau đó là sự sụp đổ cả vương triều. Nguyễn Ánh sau khi lên ngôi phá bỏ thành Hoàng Đế chuyển thủ phủ xuống Quy Nhơn, nơi đây dần bị lãng quên. Sau này, nhờ sự tích cực của các cơ quan chức năng, di tích này được bảo tồn, trở thành điểm tham quan quan trọng của ngành du lịch đang phát triển của Bình Định.
Buổi trưa, chúng tôi đến làng Cù Lâm, nơi nấu rượu Bàu Đá nổi tiếng, mua ít rượu về làm quà và thưởng thức đặc sản địa phương. Rượu Bàu Đá thì không đáng kể trong cách nấu vì rượu ngon phụ thuộc ở nguồn nước và men rượu. Người dân ở đây may mắn có cả hai! Cũng vì thế, mấy nghệ nhân nấu rượu của làng Cù Lâm khẳng định như đinh đóng cột: Rượu Bàu Đá ngon phải mua từ làng được nấu thủ công, chứ loại rượu Bàu Đá đóng chai sản xuất công nghiệp thì không thể sánh bằng. Rồi thì bữa trưa cũng được dọn ra: Nem chợ Huyện, tré (một loại nem thính) được bó rơm, bánh tráng chấm mắm ruột… bình dị, được chuẩn bị trong phút chốc mà rất ngon, giàu chất dinh dưỡng. Người địa phương như anh Đức cũng không hiểu có từ bao giờ, xuất xứ từ đâu. Chúng tôi không phải là chuyên gia nghiên cứu văn hóa, ẩm thực nhưng trong hơi men rượu Bàu Đá cũng vui chuyện đặt giả thiết với anh Đức. Như món tré là một biến thể của nem thính do những người Việt di cư từ hàng trăm năm trước vượt đèo Hải Vân, đèo Cù Mông đưa vào? Còn bánh tráng nhúng nước lã chấm mắm ruột có thể ăn no không thấy chán, phải chăng đã giúp quân Tây Sơn hành quân thần tốc bởi không cần nghỉ để… nấu cơm?
Xe lăn bánh trên Quốc lộ 19 đưa chúng tôi có mặt tại thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn sau khoảng thời gian chưa tới một giờ đồng hồ. Anh Đức chỉ cho tôi một bến nước trông bình thường nhưng anh kể đây chính là bến Trường Trầu, hơn hai trăm năm trước, Nguyễn Nhạc đã từng là một doanh nhân thành đạt buôn trầu từ đây xuôi dòng sông Côn về Quy Nhơn. Những dấu tích về quê nhà của ba anh em nhà Tây Sơn đã bị Nguyễn Ánh xóa sạch, chỉ còn một giếng cổ nước mát lành và cây me cổ thụ nơi ba anh em luyện võ ôn văn đã đi vào câu ca của dân làng Kiên Mỹ: “Cây me bến nước sân đình/ Ơn sâu nghĩa nặng dân mình còn ghi”. Làng Kiên Mỹ hôm nay tồn tại nhờ du lịch và các nghề truyền thống: Làm bún, rèn sắt, làm bánh, dệt lụa tơ tằm…, đời sống bà con ấm no, vui thú nơi sông nước hữu tình. Lòng du khách nơi phố xá ồn ào, dừng chân ở đây cũng thấy thanh thản đến lạ.
Thăm Bảo tàng Quang Trung, thắp hương cho các bậc tiên hiền có công đặt tiền đề thống nhất bờ cõi, chống giặc ngoại xâm. Ở đây, chúng tôi mong mỏi gặp võ sư nổi tiếng Hồ Sừng - người đã dành cả cuộc đời để truyền bá võ học Tây Sơn. Tiếc là ông vừa xuống Quy Nhơn khám bệnh, tiếp chuyện chúng tôi là con trai ông - võ sư Hồ Văn Sĩ. Thời trước, võ sư Hồ Sừng và những người bạn thường đi mãi võ giang hồ, cuộc sống không mấy dư dả. Đến thời Đổi mới, người ta ít cho con đi học võ vì nghiệp võ sư vừa gian nan mà đâu chắc bảo đảm cuộc sống. Mấy năm trở lại đây, khi người ta đã biết coi trọng những di sản phi vật thể quan trọng không kém di tích lịch sử, võ học Tây Sơn được coi trọng. Võ sư Hồ Văn Sĩ kể: “Hàng ngày, tôi đến bảo tàng cùng các môn sinh biểu diễn võ nhạc phục vụ du khách. Thời gian còn lại đi dạy võ để người dân rèn luyện sức khỏe. Đến nay, lượng người theo học ngày càng đông, mừng là dòng võ Hồ Gia nối tiếp đời thứ 5 và rộng ra là tinh hoa võ Bình Định đã được bảo tồn trong dân chúng một cách bền vững”.
Nhìn những cô, cậu học trò hơn 10 tuổi của võ sư Hồ Văn Sĩ rắn rỏi, nhanh nhẹn biểu diễn những động tác dứt khoát, uyển chuyển trên nền trống trận Tây Sơn, có thể tưởng tượng bóng dáng những chiến binh Tây Sơn dũng mãnh bạt Xiêm, bình Thanh năm xưa. Thế mới biết những gì hữu hình mất đi nhưng tinh thần, ý chí thì còn được, luôn được trao truyền từ lớp người này đến lớp người khác; để hôm nay trên quê hương “Tây Sơn tam kiệt” vẫn còn đó tiếng trống trận năm xưa.
Ghi chép của AN PHÚC