 |
Liệt sĩ Phạm Chính |
QĐND - Gần nửa thế kỷ đã qua, nhưng hậu trường của bộ phim “Chung một dòng sông” vẫn luôn khắc khoải trong tôi. Đó là những ngày tháng 3 năm 1959, đoàn làm phim của Xưởng phim truyện Việt Nam đã vượt hàng trăm cây số từ Hà Nội vào Quảng Bình, qua sông Nhật Lệ, bên kia bán đảo cát Bảo Ninh của thị xã Đồng Hới để quay bộ phim.
“Chung một dòng sông” do Phạm Kỳ Nam, Nguyễn Hồng Nghi làm đạo diễn và quay phim. Phim kể câu chuyện xảy ra ở hai bờ nam bắc sông Bến Hải sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954. Anh Vận (Mạnh Linh đóng) ở bờ bắc có vợ là chị Hoài (Phi Nga đóng) ở bờ nam. Dòng sông chảy qua vĩ tuyến 17 ấy, ranh giới tạm thời của hai miền đất nước đã làm đôi đường tình thương cách trở. Chiều chiều, những đoàn thuyền đánh cá từ ngoài khơi trở về cửa sông, một nửa rẽ sang bờ bắc, một nửa phải vật vờ trở về bờ nam. Anh Vận đau đáu, xót xa mỗi lần ngồi trên thuyền đánh cá bờ bắc nhìn xa xăm về người vợ hiền đang đứng dưới bờ nam vẫy tay, vẫy nón. Trong lúc nhân dân Vĩnh Linh bờ bắc tự do hội họp, học hành, vui chơi thì nhân dân bờ nam ở Cát Sơn bị lính ngụy hà hiếp, cấm đoán hội họp, đi lại, cấm cả việc thực hiện đời sống tâm linh. Những chiến sĩ công an vũ trang miền Bắc làm nhiệm vụ trong đồn liên hiệp ở bờ nam giới tuyến bỗng trở thành sứ giả, niềm tin và ước mơ của những người dân trong vòng vây kẽm sắt của chế độ Mỹ-ngụy. Bộ phim với nhiều tình tiết sinh động, hấp dẫn đã làm khán giả miền Bắc mê say, cảm động. Bộ phim đã được tham gia và đoạt giải thưởng lớn tại Liên hoan phim Quốc tế 1962. Và năm 1970, trong Liên hoan phim toàn quốc lần thứ hai, “Chung một dòng sông” đã được giải “Bông Sen vàng”.
Giữa cái vùng “chang chang cồn cát” suốt 4 tháng trời ròng rã giữa mùa nắng nóng thiêu đốt, đoàn làm phim đã như cỗ máy mở hết công suất. Từ đạo diễn, quay phim, diễn viên đến đạo cụ, hóa trang, thư ký trường quay... xoay trần để có được những thước phim theo ý muốn.
Một hôm, trưởng thôn quê tôi đi từng nhà thông báo: “Sáng mai, tất cả mọi người ra bờ sông để đóng phim, sẽ được trả tiền công đấy!”. Sáng sớm, già trẻ, trai gái kéo nhau ra bờ sông để đóng phim. Cảnh quay là bà con bờ nam đi chợ. Hôm đó là ngày Quốc khánh 2-9, bờ bắc cờ xí rợp trời, nhân dân ca hát, nhảy múa rộn ràng. Bọn ngụy liền cản lại, đuổi mọi người về vì sợ dân chúng ngóng sang cả bờ bắc. Cảnh đấu tranh đã diễn ra giữa những người dân thường bờ Nam sông Bến Hải và bọn lính ngụy chính quyền Ngô Đình Diệm rất căng thẳng, quyết liệt. Chiều, dân chúng lại tham gia quay cảnh khác. Đó là cảnh nhân dân bờ nam biểu tình, hô vang khẩu hiệu phải đền bù danh dự cho chị Hoài đã bị đồn trưởng Đồn Liên hợp của ngụy làm nhục trên cát. Mệt đấy, nhưng trước khi ra về, mọi người đều nhận được 1 đồng tiền 5 xu. Ai tham gia đóng phim cũng đều phấn khởi.
Bấy giờ, tôi là một cậu bé 14 tuổi, háo hức cùng gần chục đứa bạn trèo lên một cây me trên đồi để nhìn xuống khuôn viên của một ngôi đền sát đó- nơi đoàn làm phim đang quay cảnh anh Vận và chị Hoài ngày đoàn tụ. Bỗng đạo diễn và quay phim Nguyễn Hồng Nghi nhìn thấy, liền quay ống kính về phía chúng tôi: “Này, các cháu, chú quay phim đấy nhé. Các cháu cứ chỉ chỉ, trỏ trỏ tự nhiên, xem như mình đang là các thiếu nhi ở bờ nam sông Bến Hải đang hướng về bờ bắc trong ngày Quốc khánh”. Cảnh quay tình cờ mà hóa thật như từng có trong kịch bản.
Sau cảnh quay “ngẫu hứng” ấy, đạo diễn Phạm Kỳ Nam đã bảo chúng tôi leo xuống. Tất cả quây quần ngồi dưới gốc cây me. Chú nói:
- Bây giờ cần có một cháu đóng vai cảnh một em bé bờ nam ôm gốc cây hát theo Quốc ca ở bờ bắc sông Bến Hải ngày 2-9. Ai xung phong?
Cả bọn nhìn nhau vừa thẹn, vừa sợ. Một thoáng, đạo diễn Phạm Kỳ Nam chỉ vào Phạm Chính, bạn tôi:
- Cháu này đẹp trai, đóng nhé!
 |
Cảnh trong phim "Chung một dòng sông"
|
Phạm Chính gật đầu. Thế là Phạm Chính được bố trí nép mình vào gốc cây. “Bắt đầu!”-hiệu lệnh của chú Phạm Kỳ Nam phát ra. Tiếng máy quay phim chạy xè xè. Phạm Chính hát, nhưng lại thẹn nên sắc mặt không tự nhiên. Những 6, 7 lần “Bắt đầu!”, nét mặt Phạm Chính mới tỏ ra nghiêm trang khi hát Quốc ca.
Tháng 2-1965, Mỹ đánh vào Đồng Hới, Quảng Bình, mở màn cho chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc. Mẹ Suốt, người chèo đò ngang, giữa bão táp bom đạn vẫn cầm chắc mái chèo chở bộ đội qua sông và trở thành Anh hùng LLVT nhân dân. Tuổi trẻ làng quê Bảo Ninh chúng tôi mỗi người có một số phận. Người vào trường đại học. Người tham gia lực lượng thanh niên xung phong. Người khoác súng vào Nam đánh giặc. Người theo cha chú lên thuyền ra khơi bám biển đánh cá...
Năm 1968, tôi trở lại Quảng Bình nhận công tác sau khi tốt nghiệp. Thật bàng hoàng khi nhận tin Phạm Chính đã hy sinh từ tháng 5 năm trước. Trước đó một năm, bố anh, ông Phạm Rà, liệt sĩ ngành giao thông vận tải cũng đã bị bom Mỹ giết hại ở cửa Nhượng-Hà Tĩnh khi đoàn thuyền chở gạo vào Quảng Bình vừa ngang qua đây. Phạm Chính hy sinh, lúc đó anh là Tiểu đội trưởng trong Đại đội pháo C300 của Thị đội Đồng Hới. Lần đó, giặc Mỹ ném bom xuống trận địa trên cát sau làng, Phạm Chính bị một mảnh bom chém vào lưng, trong khi anh đang ghì cò súng.
Mộ của cậu bé hát Quốc ca bên bờ nam sông Bến Hải hướng ra bờ bắc trong bộ phim “Chung một dòng sông” năm xưa ấy, được gia đình và dân làng đặt ở một trảng cát rộng. Tôi đến thắp hương trên mộ anh. Nước mắt lã chã rơi. Những người làm phim “Chung một dòng sông” từ đạo diễn đến diễn viên chính giờ đây có lẽ đã vắng nhiều. Nhưng bộ phim của họ để lại là một dấu ấn tốt đẹp ban đầu cho nền điện ảnh nước nhà. Trong đó có cả chúng tôi, những người dân làng biển Bảo Ninh và liệt sĩ Phạm Chính anh hùng, từng vào vai phụ...
Bài và ảnh: Hồ Ngọc Diệp