QĐND Online – Băng rừng, lội suối, len lỏi vào từng ngõ ngách trong thành phố để ghi vào ống kính những thước phim về cuộc chiến đấu dành độc lập tự do của quân và dân ta, đó là tinh thần làm việc quên mình của các chiến sĩ quay phim Điện ảnh Quân đội trong những năm chiến tranh. Họ là những người viết sử bằng hình, các tác phẩm thấm đẫm biết bao mồ hôi, xương máu của người chiến sĩ Bộ đội Cụ Hồ sẽ là kho sử liệu vô cùng quý giá.
Sát cánh cùng bộ đội ở những chiến trường khốc liệt nhất
Với 41 năm hoạt động nghệ thuật, là quay phim chính của 23 bộ phim, đạo diễn hơn 30 phim, viết 40 kịch bản với hơn 60 tập phim tài liệu điện ảnh và truyền hình, Đại tá, NSƯT Nguyễn Thành Thái từng tham gia quay phim ở các chiến dịch lớn như: Chiến dịch Khe Sanh năm 1968, Chiến dịch Trung Lào năm 1970, Chiến dịch Đường 9-Nam Lào năm 1971, Chiến dịch Cánh đồng Chum-Long Chẹng cuối năm 1971, Chiến dịch Quảng Trị 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975.
Người chiến sĩ quay phim Nguyễn Thành Thái luôn xông pha trận mạc năm xưa, giờ đã sắp bước vào tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng nhìn dáng vẻ nhanh nhẹn, hoạt bát của ông, chúng tôi hiểu rằng, chính những năm tháng được rèn luyện ở chiến trường đã giúp ông có tinh thần làm việc không biết mệt mỏi. Tác phong của người lính từng kinh qua trận mạc vẫn mãi theo ông đến ngày nay. Đến giờ, mặc dù đã nghỉ hưu nhưng người chiến sĩ này vẫn bị cuốn hút bởi guồng quay của công việc.
 |
Đại tá, NSƯT Nguyễn Thành Thái quay phim thành cổ Quảng Trị năm 1972. Ảnh: Tư liệu Điện ảnh Quân đội |
Năm 1969, lần đầu tiên chiến sĩ quay phim Nguyễn Thành Thái cùng với đồng chí Nguyễn Mạnh Nhiễu nhận nhiệm vụ hành quân cùng Sư đoàn 304 vào quay phim ở chiến trường Khe Sanh. Thời kỳ này, quân Mỹ đang chốt giữ vùng lòng chảo Khe Sanh nên khi vào đây, tổ quay phim đã đi theo đơn vị đặc công trực tiếp chiến đấu với lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ, đánh nhiều trận ác liệt ở Làng Pù, Làng Vây, Làng Khoai. Bám trụ làm phim ở chiến trường, ngoài bom đạn khốc liệt còn phải đối mặt với căn bệnh sốt rét ở Trường Sơn. Tuy khó khăn gian khổ, nhưng tổ quay phim vẫn bám theo bộ đội bước vào các trận đánh để làm nhiệm vụ.
“Ngày ấy lớp quay phim trẻ chúng tôi thường được cử đi quay phim các chiến dịch lớn ở chiến trường B ngắn như Khu 5, Quảng Trị, Lào, sau đó đem phim về in tráng, dựng thành các bộ phim phóng sự tài liệu. Khi diễn ra các trận đánh, tổ quay phim thường được phân công đi theo mũi chủ công. Đây là mũi chiến đấu được tăng cường hoả lực mạnh để đột kích vào hướng chủ yếu nên thường gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân địch. Trong những lần xung trận như thế, bản thân chúng tôi thường suy nghĩ: Mình là lính quay phim của Tổng cục Chính trị vào chiến trường làm phim để tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao ý chí chiến đấu cho bộ đội, nên trước những tình huống cụ thể trong chiến đấu luôn sẵn sàng chấp nhận hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Đôi khi tinh thần quyết tâm bám sát đơn vị trong trận đánh của chúng tôi góp phần tạo thêm ý chí niềm tin cho người chiến sĩ trong chiến đấu”, NSƯT Nguyễn Thành Thái cho biết.
 |
Tổ quay phim đang quay cảnh hành quân ở chiến trường Quảng Trị. Ảnh: Tư liệu Điện ảnh Quân đội |
Không chỉ tham gia quay phim ở các chiến dịch lớn diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, các tổ làm phim của Điện ảnh Quân đội còn theo đoàn quân đến chiến trường Lào.
Tháng 10-1971, Đoàn Điện ảnh Quân đội cử 4 tổ quay phim gồm có các đồng chí Trần Xuân Thường, Quang Chi, Hà Tài, Nguyễn Thọ, Nguyễn Tiến Xuân, Lê Đức Tiến, Phạm Hữu Doanh, Nguyễn Thành Thái tham gia chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum-Long Chẹng. Đây là một chiến dịch lớn, ta giúp bạn Lào đánh đuổi hơn 50 tiểu đoàn quân Thái Lan và ngụy Lào lấn chiếm vùng giải phóng Xiêng Khoảng mùa mưa 1971. Khi chiến dịch mở ra, tổ quay phim của chiến sĩ Thành Thái và đồng chí Phạm Hữu Doanh nhận nhiệm vụ bám theo Trung đoàn 148 của Sư đoàn 316, hành quân suốt 7 ngày đêm, vượt qua vùng núi đá hiểm trở trong đó có dãy Phu Pha Xay cao 2010m để vào Long Chẹng. Sau thời gian chuẩn bị, vây ép, chiều 13-1-1972, các đơn vị chiến đấu của ta nổ súng đánh chiếm điểm cao Phu Mộc – một cứ điểm tiền tiêu án ngữ phía Đông sát với trung tâm Long Chẹng. Tổ quay phim đã quay được toàn bộ diễn biến trận đánh, và đứng trên đỉnh núi Phu Mộc, còn quay được cảnh máy bay địch lên xuống ở sân bay Long Chẹng. Đây là cửa ngõ then chốt quan trọng, nên địch dùng máy bay B52 và các loại pháo, cối từ trung tâm Long Chẹng phản kích giữ dội vào vị trí bị mất, gây nhiều thương vong cho ta. Cùng bộ đội bám trụ trên cao điểm, tổ quay phim cũng phải chịu những trận bom B52 hết sức khốc liệt để thu vào ống kính những thước phim chân thực về những người chiến sĩ chiến đấu quả cảm nơi đây. Bộ phim “Chiến thắng Xiêng Khoảng” của đạo diễn Trần Xuân Thường và các cộng sự quay phim đã phản ánh tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội hai nước Việt – Lào.
Làm phim trong chiến tranh biết bao khó khăn ác liệt. Ký ức về một thời đạn bom, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc, giờ vẫn còn đọng lại trong ký ức nhiều cựu chiến binh Điện ảnh Quân đội. Để có được những hình ảnh sống động, khắc họa cuộc sống, chiến đấu của quân và dân miền Nam, những chiến sĩ quay phim quân đội phải trải qua nhiều cam go thử thách trong thực tế chiến đấu trên chiến trường.
 |
Chiến sĩ Điện ảnh Quân đội quay phim ở chiến trường Thừa Thiên - Huế năm 1969. Ảnh: Tư liệu Điện ảnh Quân đội |
Gặp Đại tá, đạo diễn, NSƯT Lê Hợi, ông kể lại những ngày nằm hầm bí mật để quay phim ở vùng lõm Quảng Điền, Thừa Thiên- Huế: “Vào đầu năm 1968, tổ quay phim của tôi và anh Trần Anh Trà vào chiến trường Trị Thiên, xuống Thành phố Huế để làm phim nhưng gặp khó khăn nên phải nằm lại huyện Quảng Điền. Trong thế trận đan xen giữa ta và địch ở vùng đồng bằng mới được giải phóng, suốt 24 ngày đêm, tổ quay phim phải bám theo các đội du kích địa phương, nay ở thôn ấp này, mai thôn ấp khác, sống trong những căn hầm bí mật chật hẹp, để tránh những trận càn quét, lùng sục của địch. Có lần, tổ quay phim vừa di chuyển đến một làng khác, chưa kịp nhận hầm bí mật để trú ẩn thì bom đạn, trực thăng của quân Mỹ bất ngờ ập đến đổ quân. Trong hoàn cảnh phơi mình trên mặt đất trống trải, không có lực lượng bảo vệ, không có vũ khí chiến đấu, tổ quay phim chỉ còn cách sẵn sàng hy sinh, khôn khéo né tránh các mũi lùng sục của bộ binh Mỹ. Cũng may cả tổ quay phim đã thoát được vòng vây của trận càn”.
Những thước phim tư liệu phải đổi bằng sức lực và tính mạng
Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 là cuộc tiến công chiến lược nhằm đập tan tuyến phòng thủ kiên cố của địch bên bờ Nam sông Bến Hải. Trong chiến dịch này, Điện ảnh Quân đội đã cử 8 đội quay phim bám theo các đơn vị chiến đấu ở các hướng của chiến dịch. Trong quá trình diễn ra chiến dịch, đã có 2 tổ quay phim hy sinh tại mặt trận. Tổ quay của đồng chí Lê văn Bằng là trưởng ban quay phim đi với Sư đoàn 308 hy sinh ở bắc cầu Đông Hà. Tổ quay phim của đồng chí Lê Viết Thế và Nguyễn Như Dũng đi với Sư đoàn 325 hy sinh khi đang làm nhiệm vụ trong cuộc tấn công vào Cam Lộ.
Những thước phim tư liệu phải đổi bằng sức lực và xương máu của các chiến sĩ quay phim tại chiến trường Quảng Trị, Đường 13, Lộc Ninh, đã góp phần xây dựng nên bộ phim “Năm 1972 lịch sử”, do Đại tá Lê Lâm đạo diễn, đã khắc họa sâu sắc một giai đoạn lịch sử đấu tranh cách mạng đầy cam go, thử thách của quân và dân ta, góp phần to lớn trên mặt trận đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Paris về Việt Nam.
Vào thời điểm tháng 4-1972, khi địch đánh phá trở lại miền Bắc, lực lượng quay phim của Điện ảnh Quân đội lúc này đa số tập trung vào các chiến dịch lớn ở Quảng Trị, Tây Nguyên, Khu 5. Để đáp ứng yêu cầu quay phim đánh máy bay Mỹ, đơn vị phải huy động cả các đồng chí làm ánh sáng, kịch vụ, biên tập đi làm phụ quay. Trong đó có Thượng sĩ Nông Văn Tư phụ trách ánh sáng làm phụ quay cho Đại úy Hà Tài vào trực chiến ở thành phố Vinh. Tại đây, tổ quay phim thường xuyên có mặt trên trận địa, quay được nhiều cảnh chiến đấu ác liệt giữa bộ đội với máy bay Mỹ. Khi bom đạn nổ, hai đồng chí vẫn giương cao ống kính. Thấy sự nguy hiểm vì phải đứng ở nơi cao để quay phim, cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị khuyên tổ quay phim nên vào hầm trú ẩn. Nhưng với tinh thần làm việc quên mình, không quản ngại khó khăn, hiểm nguy, đồng chí Nông Văn Tư đã nói “Đây là chỗ đứng của chúng tôi”.
Trong một lần địch rải bom bi vào trận địa, đồng chí Hà Tài bị thương, đồng chí Nông Văn Tư đã dũng cảm hy sinh khi đang làm nhiệm vụ. Câu nói của đồng chí Nông Văn Tư đã trở thành bài học giáo dục tinh thần chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ toàn Trung đoàn trong những ngày làm nhiệm vụ bảo vệ thành phố Vinh.
Cuối năm 1972, Mỹ đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc, các tổ quay phim của Điện ảnh Quân đội chia thành nhiều mũi, bám sát cuộc chiến đấu ác liệt đánh B52 suốt 12 ngày đêm của quân và dân Hà Nội.
Trong những đêm phục kích quay cảnh đánh B52 của quân và đân Thủ đô, tổ quay phim đã vượt qua khó khăn về kỹ thuật và sự ác liệt của bom đạn địch. Để quay được cảnh tên lửa bắn B52 trong đêm tối, tổ quay phim phải túc trực suốt đêm bên trận địa để sẵn sàng bấm máy, có những lúc tên lửa nổ ngay bên cạnh các chiến sĩ. Tại trận địa này, tổ quay phim của đồng chí Phạm Thọ đã quay được cảnh máy bay B52 cháy rơi trên cánh đồng của huyện Đông Anh, Hà Nội.
Vượt qua bao khó khăn, hiểm nguy, lực lượng quay phim quân đội đã bám sát trận địa chiến đấu suốt 12 ngày đêm để ghi chép những diễn biến trong trận “Điện Biên Phủ trên không” bảo vệ Hà Nội. Bộ phim “Hà Nội bản hùng ca” của đạo diễn Phan Quang đã được hoàn thành vào đầu năm 1973. Bộ phim thấm đẫm biết bao mồ hôi, xương máu của các chiến sĩ quay phim đã đem đến người xem trong nước và bạn bè quốc tế về ý chí, sức mạnh trí tuệ Việt Nam, đánh bại kẻ thù hùng mạnh trên mảnh đất ngàn năm văn hiến.
Không quản khó khăn, hiểm nguy, những thước phim thấm đẫm biết bao xương máu của những người nghệ sĩ, chiến sĩ Điện ảnh Quân đội nhân dân sẽ là những trang sử vàng sáng chói của Quân đội Việt Nam.
Bài, ảnh: KHÁNH HUYỀN
Bài 1: Làm phim xung kích