Sau gần 2 năm (1941-1942) phong trào Việt Minh phát triển mạnh ở Cao Bằng, nhiều chị em phụ nữ đã hăng hái tham gia Hội Phụ nữ cứu quốc, trở thành bộ phận quan trọng của phong trào Việt Minh. Quán triệt Chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phát triển các tuyến đường “Nam tiến”, Ban Chấp hành Phụ nữ cứu quốc tỉnh Cao Bằng đã cùng cấp ủy lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng nhiều hội viên thành những cán bộ chính trị, quân sự tham gia phát triển Việt Minh theo các tuyến đường “Nam tiến”.

Theo sự chỉ đạo của đồng chí  Văn (tức Võ Nguyên Giáp), các mũi xung phong “Nam tiến” được thành lập. Tổ nữ xung phong “Nam tiến” đi trước làm công tác phụ vận cơ sở. Tiếp sau đó các đồng chí cán bộ Đảng cốt cán trực tiếp đến mở các lớp huấn luyện, tuyên truyền vận động mở rộng phong trào Việt Minh. Vượt qua gian nguy tránh thú dữ, thổ phỉ, truy sát của địch, chị em đến các cơ sở tuyên tuyền, vận động, giác ngộ quần chúng đi theo Việt Minh và xây dựng tổ chức tự vệ. Nhiều chị em được tham gia huấn luyện quân sự các cấp, trở thành các đội viên trong các đội vũ trang tuyên truyền hoạt động trên các tuyến đường “Nam tiến”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm Cao Bằng năm 1994. Ảnh tư liệu

Tổ nữ xung phong “Nam tiến” sớm thành lập ở Nguyên Bình (lấy tên là Minh Khai), gồm có các chị: Nông Thị Hựu (Tự Quyết), Xuân Dung, Hồng Vân đi hướng Khau Giáng (Đèo Giàng) - Thượng Ân, Cốc Đán (Bắc Kạn), một tháng đã gây dựng cơ sở cứu quốc trong 3 tổng. Sau đó, tổ nữ xung phong “Nam tiến” hình thành 3 tuyến. Tuyến “Nam tiến” Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái Nguyên có các chị: Đàm Thị Loan, Lê Thị Cầm, Nguyễn Thị Thanh (Hòa An), Nông Thị Lập (Nguyên Bình) hoạt động trên địa bàn người Tày, Dao, Nùng. Nhiều chị em người Dao trở thành cán bộ tham gia Ban Chấp hành Việt Minh cấp xã, tổng, châu..., góp phần vào thành lập khu Việt Minh Quang Trung của dân tộc Dao. Tổng Hoàng Hoa Thám trở thành trung tâm phát triển Việt Minh của đồng bào Dao được Tổng bộ Việt Minh Cao - Bắc - Lạng khen tặng danh hiệu “Đội xung phong có thành tích xuất sắc”.

Chiến công của tổ nữ xung phong “Nam tiến” được Tổng bộ Việt Minh biểu dương, tặng danh hiệu “Phụ nữ tiên phong” cho đội “Minh Khai”. Chị Đàm Thị Loan từ du kích trở thành đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, vinh dự kéo cờ Tổ quốc trong ngày Quốc khánh 2-9-1945.            

Con đường Nam tiến từ Cao Bằng muốn mở thông xuống Bắc Kạn – Thái Nguyên phải vượt qua những dãy núi cao chạm mây trời, dãy núi Khau Giáng, Phja Đén (Nguyên Bình, Cao Bằng), Phja Boóc (Bắc Kạn), Phja Dạ (Bảo Lạc, Cao Bằng). Dưới chân núi là những bản làng đồng bào Mông, Dao quần cư sinh sống.

Sở dĩ “Nam tiến” phải mở 2 tuyến quan trọng “Nam tiến” qua vùng đồng bào Mông, Dao vì đây là tuyến huyết mạch nhất. Từ huyện Nguyên Bình (Cao Bằng) - Ngân Sơn, Chợ Rã (Bắc Kạn) thông sang Chợ Chu, Đại Từ (Thái Nguyên) do các đồng chí Võ Nguyên Giáp Lê Thiết Hùng phụ trách; “Tây tiến” từ Nguyên Bình - Bảo Lạc (Cao Bằng) - Na Hang (Tuyên Quang) - Bắc Mê (Hà Giang) nối thông sang Vân Nam (Trung Quốc) do đồng chí Phạm Văn Đồng phụ trách. 2 hướng này là vùng đồng bào Mông, Dao sinh sống, bị án ngữ bởi các dãy núi trùng điệp cao ngất Phja Oắc, Phja Dạ và Phja Boóc.  Đường này tuy hiểm trở, người Mông, Dao có bản sắc văn hóa riêng, địch đặt nhiều cơ sở mật thám để truy lùng cán bộ cách mạng…, nhưng tổ “Nam tiến” vượt qua mọi gian nguy, hòa nhập với đồng bào phát triển phong trào Việt Minh.

Từ khi quân Pháp, mật thám biết phong trào Việt Minh tập hợp đoàn kết các dân tộc, chúng lợi dụng vấn đề bà con vùng thấp dân tộc Tày, Nùng và vùng cao người Mông, Dao để chia rẽ, gây mất đoàn kết các dân tộc. Khi đồng chí Văn đến bản đến mở lớp tuyên truyền về mục đích đấu tranh cách mạng, bà con người Dao thấy đồng chí Văn nói được tiếng Dao dân tộc mình, nói những việc đấu tranh vì quyền lợi người Dao và các dân tộc khác nên bà con rất quý mến, cảm phục tin tưởng một lòng đi theo Việt Minh cùng nhau làm lễ kết nghĩa ăn thề. Các anh Lý Văn Thượng (bí danh Tuyên Truyền), Anh Hùng, Nam Kỳ, Đoàn Kết… dân tộc Dao trở thành cán bộ cốt cán vùng đồng bào Dao. Có anh em, họ hàng, bạn đồng canh ở Bản É, Hang Slậu, Khưa Nam xã Thượng Ân, Cốc Đán, Tô Khê châu Ngân Sơn.

Chỉ một thời gian sau, các bản làng này đã có cơ sở quần chúng theo đoàn thể cách mạng. Dưới chân dãy núi Khau Giáng địa giới huyện Nguyên Bình từ phía Đông sang Tây huyện Ngân Sơn đều có cơ sở Việt Minh. Từ Khau Giáng vượt qua Thượng Ân, Cốc Đán (Ngân Sơn) sang Hà Hiệu, Bành Trạch, Chợ Rã đến tháng 9-1943, đồng chí Văn đến bản Và, Nà Pán, Nặm Lạ dưới chân núi Phja Boóc đặt tên cho dãy núi Phja Boóc là “Núi cứu quốc” hoạt động trong vùng đồng bào Dao đỏ, Dao tiền được bà con rất quý mến và kết nghĩa anh em xây dựng con đường Việt Minh nối liền giữa các châu Chợ Rã, Bạch Thông, Chợ Đồn (Bắc Kạn) với Na Hang (Tuyên Quang).

Đối với dân tộc Mông có đồng chí Dương Kim Đao là cán bộ Việt Minh ưu tú của đồng bào Mông tham gia gia Việt Minh, mở đường “Nam tiến” năm 1941 - 1944, cùng với các đồng chí Văn, Phạm Văn Đồng, Vũ Anh…. Ông Dương Kim Quý (con ông Dương Kim Đao) xúc động kể: Bố mẹ tôi khi còn sống thường hay kể lại cho con cháu đồng chí Văn đến nhà rất gần gũi kính già, mến trẻ, cùng ăn mèn mén. Bài ca Việt Minh đồng chí Văn được dịch ra tiếng Mông “Việt Minh pính đẩư chí chử” và tiếng Dao “Việt Minh pia giảng sâu” đã thu hút đông đảo người Mông, Dao dưới chân núi Phja Oắc, Phja Dạ, Phja Boóc tham gia các tổ chức cứu quốc.

Từ lối tuyên truyền giản dị, gắn bó, gần gũi với bà con như anh em ruột thịt, đồng chí Văn và cán bộ cách mạng đã gieo niềm tin son sắc vào lòng người Mông, Dao đi theo con đường Việt Minh. Do đó tổ đội nữ xung phong “Nam tiến” làm công tác phụ vận, đi tuyên truyền, vận động đồng bào Mông, Dao tham gia các tổ chức cứu quốc, gây dựng cơ sở cách mạng đều được đồng bào rẻo cao hưởng ứng. Tổ nam xung phong “Nam tiến” gồm các đồng chí Cắm (Tiến Lực), Mạnh (Thanh Vi), Đề Thám, Nguyên, Thài…, đã đi mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ người Mông, Dao (dạy bằng tiếng Mông, Dao) về chương trình, điều lệ Việt Minh, tôn chỉ mục đích các tổ chức Hội cứu quốc. Việt Minh đi đến đâu tổ chức phong trào học chữ, văn hóa, huấn luyện quân sự thu hút hàng nghìn đồng bào Mông, Dao tham gia tổ chức cứu quốc.

Ngày 15-9-1943, Đại hội châu Việt Minh người Mông, Dao đỏ vùng Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình thành lập châu Chí Kiên; ngày 20-9-1943, Bảo Lạc thành lập châu Xích Long; tháng 11-1943, thành lập Khu Thiện Thuật dân tộc Mông (Nguyên Bình) do đồng chí Dương Kim Dao, người Mông làm chủ nhiệm; vùng dân tộc Dao tiền thành lập Khu Việt Minh Quang Trung do đồng chí Lý Văn Thượng làm chủ nhiệm. Các khu Việt Minh dân tộc Mông, Dao trở thành căn cứ địa lòng dân nối những con đường mòn xuyên qua rừng rậm, núi cao của bản làng người Mông, Dao thông xuống các tỉnh trung du và nối với quốc tế.

Sau đó, đồng chí Văn và cán bộ cách mạng đến Thượng Giáo (Ba Bể, Bắc Kạn) vượt những vách đá dựng đứng của dãy núi Phia Bioóc đến Bằng Phúc đi qua những triền núi, cánh đồng Phương Viên đến Nghĩa Tá huyện Chợ Đồn. Cả đoàn nghỉ lại nhà đồng chí Dương ở bản Băng, đợi đồng chí Chu Văn Tấn cho người lên đón và đợi chúng tôi ở Chợ Chu. Vài ngày sau, anh Tấn cử đồng chí giao thông lên, chúng tôi đi hai, ba đêm qua vùng đồng bào Mán Ô-gang sống rất nghèo khổ đến chặng cuối làng Cóc- Đèo So. Ở đây, địch đóng đồn ngay giáp đường. Anh Chu Văn Tấn và đồng chí Dục Tôn đợi chúng tôi tại một cái lán của đồng bào làm để canh lúa ở ven rừng. Sau đó, các đồng chí đội Nam tiến do đồng chí Quang phụ trách cũng tới. Đến tháng 11-1943, chúng tôi gặp nhau giữa rừng sâu, ai nấy mừng vô kể. Hai con đường cùng được đánh thông, bây giờ đã hợp lại thành một con đường quần chúng cách mạng ôm vòng lấy Cao - Bắc - Lạng mà Hội nghị Trung ương lần thứ 8 vạch ra. Tôi giới thiệu những kinh nghiệm của Cao Bằng, Bắc Kạn. Anh Tấn kể lại tình hình phong trào đang lên mạnh ở Bắc Sơn, Thái Nguyên và miền xuôi; cơ sở của chúng ta tại Bắc Sơn, Vũ Nhai đã được củng cố và đang mở rộng sang Chợ Chu, Đại Từ. Anh Tấn cho tôi biết, đã bắt được liên lạc với Trung ương ở miền xuôi. Đêm khuya, chúng tôi cùng rải lá cọ nằm ngủ với nhau giữa rừng. Để kỷ niệm lần gặp gỡ đáng ghi nhớ ấy, chúng tôi đặt tên xã Nghĩa Tá (Chợ Đồn) là xã Thắng Lợi. “Từ nhân dân mà ra”- Hồi ký Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

BẾ DŨNG – TRƯỜNG HÀ