Sốt rét là loại bệnh truyền nhiễm lan truyền theo đường máu, do ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) gây nên. Bệnh được truyền từ người mang KSTSR sang người lành bởi muỗi Anopheles. Sau khi vào cơ thể, KSTSR phát triển, nhân lên gấp nhiều lần, phá vỡ hàng loạt hồng cầu và gây ra cơn sốt. Cơn sốt có chu kỳ 1 ngày một cơn, cách 1 ngày hoặc 2 ngày một cơn là tuỳ theo chủng KSTSR. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh nặng trở thành sốt rét ác tính, rất dễ tử vong.
Việt Nam là nước sốt rét lưu hành nặng của khu vực Châu á - Tây Thái Bình Dương, sau thời kỳ bùng nổ dịch sốt rét năm 1991-1992, đến nay, bệnh sốt rét (BSR) từng bước bị đẩy lùi, dịch sốt rét cơ bản được khống chế. Tuy nhiên, hiện nay những vùng có nguy cơ sốt rét vẫn chiếm 45% diện tích cả nước, tập trung chủ yếu ở các tỉnh khu vực miền Trung - Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ.
KSTSR có 4 chủng gây ra sốt rét ở người: P.falciparum, P.vivax, P.malaria, P.ovale. Gây bệnh tại Việt Nam chủ yếu là P.falciparum, P.vivax, trong đó sốt rét ác tính phần lớn do P.falciparum gây nên. Nguồn truyền nhiễm là bệnh nhân sốt rét và người mang KSTSR lạnh (người có ký sinh trùng trong máu nhưng không sốt rét). Người mang KST lạnh là nguồn truyền nhiễm nguy hiểm cho cộng đồng vì khó phát hiện và không được điều trị đúng.
Khi bị sốt rét, người bệnh có các triệu chứng lâm sàng chính với 3 giai đoạn của cơn sốt điển hình: Giai đoạn rét run, dữ dội và dọc sống lưng ra toàn cơ thể, nổi da gà, run bần bật đắp nhiều chăn vẫn rét (thời gian 15 phút đến 1 giờ); Giai đoạn sốt nóng, hết cơn rét, bệnh nhân nóng bức tung chăn, mặt đỏ, mắt đỏ, da khô nóng, thở nhanh và nhức đầu, chóng mặt, nhiệt độ có thể lên tới 40-41oC, kéo dài 1-2 giờ; Giai đoạn ra mồ hôi, nhiệt độ hạ xuống, ra mồ hôi nhiều, bệnh nhân dễ chịu hơn, giảm nhức đầu, kéo dài 1-2 giờ. Hết 3 giai đoạn, bệnh nhân làm việc ăn uống bình thường, nếu không được điều trị đúng, bệnh nhân có thể bị sốt lại theo chu kỳ. Người mắc BSR có thể còn một số triệu chứng khác như: thiếu máu, gan to, lách to.
Để chẩn đoán bệnh nhân bị sốt rét, cần phải lấy máu làm xét nghiệm. Nếu KSTSR dương tính (+) thì người bệnh chắc chắn đã bị sốt rét. Nếu không có điều kiện làm xét nghiệm, có thể chẩn đoán bệnh dựa trên một số yếu tố sau: Sốt với triệu chứng điển hình của cơn sốt rét với 3 giai đoạn là rét run, sốt nóng và ra mồ hôi, hoặc có triệu chứng không điển hình của cơn sốt rét như sốt không thành cơn (người bệnh thấy ớn lạnh, gai rét, nhiệt độ nách ≥ 37,50C) hoặc sốt cao liên tục, sốt dao động, hoặc có sốt trong 3 ngày gần đây; Không tìm thấy các nguyên nhân gây sốt khác; Đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét lưu hành, có tiền sử mắc sốt rét trong 2 năm gần đây. Trong vòng 3 ngày đầu điều trị bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt. Khi bị sốt hoặc nghi ngờ mắc BSR, người bệnh cần lập tức đến cơ sở y tế để được khám, theo dõi và làm các xét nghiệm máu kịp thời. Trường hợp đã có kết luận bị mắc bệnh, bệnh nhân phải được điều trị đúng phác đồ, đủ liều và điều trị liều thuốc tiệt căn theo hướng dẫn của thầy thuốc.
Để chủ động ngăn chặn và tiến tới thanh toán BSR, ngày 27/10/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1920/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng chống và loại trừ BSR ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030. Chiến lược nêu rõ, đến năm 2020 phấn đấu đạt được các mục tiêu khống chế tỷ lệ mắc sốt rét dưới 0,15/1.000; tỷ lệ tử vong do sốt rét là dưới 0,02/100.000; cả nước không còn tỉnh nào trong giai đoạn phòng chống sốt rét tích cực; 40 tỉnh trong giai đoạn đề phòng sốt rét quay trở lại; 15 tỉnh trong giai đoạn loại trừ sốt rét và 8 tỉnh trong giai đoạn tiền loại trừ sốt rét vào năm 2020.
Trong quân đội, công tác phòng chống BSR thời gian gần đây đã thu được những kết quả quan trọng. So với năm 2010, năm 2011, tình hình sốt rét trong quân đội có xu hướng giảm dần. Số lượng bệnh nhân mắc sốt rét giảm 11,79%; tỉ lệ bộ đội nhiễm KSTSR giảm còn 0,11%. Đặc biệt, năm qua toàn quân không để xảy ra ca sốt rét ác tính và tử vong do sốt rét. Hiện nay, trong toàn quân, BSR thường xảy ra chủ yếu tại các đơn vị đóng quân ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ, như: Bộ đội Biên phòng; Quân khu 4, Quân khu 5, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Binh đoàn 12, Binh đoàn 16… Mặc dù. BSR có xu hướng giảm dần, song số lượng bệnh nhân nhiễm KSTSR tại một số đơn vị đứng chân trên địa bàn miền Trung-Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ vẫn còn cao. Vì vậy, mục tiêu của Ban chỉ đạo phòng chống sốt rét quân đội trong thời gian tới là: Giữ ổn định và giảm tỷ lệ bệnh nhân sốt rét ở mức dưới 2,3/1.000 quân/năm. Hạn chế tối đa trường hợp xảy ra sốt rét ác tính và tử vong do sốt rét. Đặc biệt, không được để sốt rét lan truyền thành dịch.
Để đạt được các mục tiêu trên, các đơn vị phải tập trung vào các trọng tâm như: Tiếp tục tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về phòng chống sốt rét cho mọi đối tượng, nhất là đối với các đơn vị tham gia làm đường tuần tra biên giới, bộ đội biên phòng, các đơn vị hành quân dã ngoại đi qua vùng sốt rét lưu hành. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về phòng chống sốt rét cho các đơn vị khu vực miền Trung-Tây Nguyên; miền Đông Nam bộ, nhất là đội ngũ quân y đơn vị, xét nghiệm viên cấp trung đoàn, bệnh viện, quân y các đồn biên phòng. Trong sinh hoạt hàng ngày, trước khi đi ngủ, cán bộ, chiến sĩ phải mắc màn. Các đối tượng ăn ở dã ngoại, phải ngủ ngoài trời cần mắc màn có tẩm hóa chất xua diệt muỗi. Ngoài ra, quanh chỗ ngủ cần hun khói hoặc đốt hương xua muỗi vào buổi tối, trước khi đi ngủ. Quanh khu nhà ở, khu sinh hoạt, cần phát quang bụi rậm, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, san lấp các ổ nước đọng, khai thông dòng chảy, thả cá ăn bọ gậy để muỗi không có nơi trú đậu sinh sản và phát triển. Quân y tuyến đơn vị phải thường xuyên giám sát phát hiện sớm, chẩn đoán đúng và điều trị kịp thời các ca BSR. Tất cả các trường hợp nghi ngờ sốt rét đều phải được lấy máu làm xét nghiệm KSTSR. Đồng thời, phải cập nhật hồ sơ, báo cáo kịp thời, chính xác diễn tiến bệnh cho cơ quan quân y cấp trên.
Đối với các đơn vị đóng quân ở vùng sốt rét lưu hành nặng, mỗi năm cần phải phun thuốc tồn lưu hóa chất 2 lần; các đơn vị ở vùng sốt rét lưu hành vừa phải phun mỗi năm một lần, trường hợp có diễn tiến bất thường phải tiếp tục phun bổ sung. Thực hiện tẩm hóa chất màn ngủ chiến sĩ mỗi năm từ 1-2 lần tùy từng khu vực có mức độ sốt rét lưu hành. Ngoài các biện pháp trên, cần cho bộ đội uống thuốc dự phòng Doxycycline 100mg để phòng chống BSR. Đối tượng uống là các tân binh vào vùng sốt rét lưu hành nặng; lực lượng làm đường tuần tra biên giới; bộ đội đi vào công tác, hành quân qua vùng sốt rét lưu hành nặng. Theo khu vực, tất cả các đơn vị đứng chân trên địa bàn miền Trung-Tây Nguyên, miền Đông Nam bộ; miền Nam cũng phải uống thuốc dự phòng. Liều lượng uống là 1 viên/ngày; uống trước khi đi công tác 1 ngày, trong suốt thời gian sinh hoạt tại vùng sốt rét và 2 tuần sau khi ra khỏi vùng, trở về đơn vị. (tổng thời gian uống thuốc không quá 3 tháng).
Trên đây là một số thông tin về BSR và cách phòng ngừa, chẩn đoán, điều trị dự phòng BSR. Mong rằng các cơ quan, đơn vị và mỗi cá nhân nắm rõ để triển khai thực hiện hiệu quả, nhằm góp phần đẩy lùi, tiến tới loại trừ BSR ra khỏi cộng đồng xã hội; bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho bộ đội và nhân dân.
BS Lê Ngọc