Trong báo cáo được công bố trên Tạp chí Frontiers in Science, một nhóm nhà khoa học đã phát hiện bằng chứng rõ ràng cho thấy biến đổi khí hậu đang làm trầm trọng thêm ô nhiễm nhựa trong nước, đất, không khí và đời sống hoang dã. “Ô nhiễm nhựa và khí hậu là hai cuộc khủng hoảng song hành, làm trầm trọng thêm lẫn nhau”, tác giả chính của báo cáo, Giáo sư Frank Kelly tại Trường Y tế công cộng của Đại học Imperial College London, cho biết.

Một con mương thoát nước bị tắc nghẽn bởi rác thải nhựa sau trận lũ lụt ở Pakistan vào tháng 8-2025. Ảnh: Getty Images 

Nhiệt độ, độ ẩm và ánh sáng mặt trời tăng cao khiến nhựa bị phân hủy, trở nên giòn, nứt thành những mảnh nhỏ. Bão, lũ lụt và gió cũng đẩy nhanh quá trình phân hủy nhựa và phát tán chúng rộng rãi hơn. Các vụ cháy rừng do nhiệt độ cao và hạn hán thiêu rụi nhà cửa, văn phòng và xe cộ, sau đó thải ra các hạt vi nhựa và các hợp chất cực độc vào bầu khí quyển.

Báo cáo nghiên cứu cũng cho thấy biến đổi khí hậu có thể khiến nhựa trở nên độc hại hơn. Vi nhựa mang theo các chất như thuốc trừ sâu và hóa chất vĩnh cửu vốn không dễ bị phân hủy trong môi trường. Nhiệt độ cao hơn có thể khiến nhựa hấp thụ và giải phóng các chất gây ô nhiễm độc hại này dễ dàng hơn, đồng thời tăng khả năng rò rỉ các hóa chất độc hại có sẵn trong nhựa.

Các nhà nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp cho tình trạng này, bao gồm giảm sử dụng nhựa, tái sử dụng và tái chế, cũng như thiết kế lại sản phẩm và loại bỏ các sản phẩm nhựa dùng một lần không cần thiết. Họ cho biết “hy vọng lớn nhất” để thành công sẽ là một hiệp ước toàn cầu về nhựa có tính ràng buộc pháp lý nhằm chấm dứt ô nhiễm. Tuy nhiên, nhiều năm đàm phán song chưa đạt được thỏa thuận do các quốc gia vẫn chia rẽ sâu sắc, đặc biệt về việc có nên áp đặt giới hạn sản xuất nhựa hay không. Đây là điều mà nhiều chuyên gia môi trường cho rằng rất quan trọng để kiềm chế cuộc khủng hoảng. “Chúng ta phải hành động ngay bây giờ, vì lượng nhựa bị thải bỏ hôm nay đe dọa gây ra những gián đoạn trên quy mô toàn cầu đối với các hệ sinh thái trong tương lai”, đồng tác giả nghiên cứu Stephanie Wright, Phó giáo sư tại Trường Y tế Công cộng của Đại học Imperial College London, nhấn mạnh.