“Quay trở lại Việt Nam lần này, tôi có nhiệm vụ chuyển tới Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (VAVA) số tiền gần 3.700USD quyên góp được từ sau đám tang của bà Gioan Đa-phi, một y tá từng tham gia tại chiến tranh Việt Nam đã chết vì ung thư do chất độc da cam”, ông Ken May-ơ, Phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Mỹ vì hòa bình, đã mở đầu câu chuyện như vậy. Trong ký ức của ông, những kỷ niệm thời chiến tranh Việt Nam cách đây 41 năm lần lượt hiện về.
“Trước khi tới Việt Nam, tôi làm việc trong một đơn vị thông tin tình báo ở Ô-ki-na-oa (Nhật Bản). Nhiệm vụ của tôi khi đó là truyền đạt thông tin, chỉ thị của cấp trên tới các đơn vị thuộc quân đội Mỹ đang trên đường tới Vịnh Bắc Bộ”, ông Ken May-ơ chậm rãi kể. Được tiếp xúc với những thông tin mang tính tối mật, ông đã sớm nhận ra bản chất của sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Với cáo buộc lực lượng miền Bắc Việt Nam đã bắn hai tàu khu trục của Mỹ tại Vịnh Bắc Bộ, Tổng thống Mỹ khi đó là L.Giôn-xơn đã yêu cầu Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ nhằm dấn sâu hơn nữa vào cuộc chiến tranh Việt Nam. “Đó là sự lừa dối của chính quyền Mỹ với dư luận. Sự dối trá đó đã thuyết phục được nhân dân Mỹ tham gia vào cuộc chiến tranh tồi tệ này”, ông May-ơ nhấn mạnh.
Thế nhưng, trớ trêu thay, hai năm sau đó, tức năm 1966, ông lại bị điều sang Việt Nam và đóng quân tại Đà Nẵng. Ông được giao nhiệm vụ làm thông tin liên lạc trong các đơn vị của thủy quân lục chiến Mỹ. Chính tại nơi đây, ông đã được “mắt thấy, tai nghe”, được kiểm chứng độ chính xác những thông tin mà chính ông đã từng phải truyền đạt lại theo mệnh lệnh của thượng cấp. Tất cả là sự lừa dối.
Cảm giác bị lừa dối đã thôi thúc ông xin ra khỏi quân đội. Trở về quê hương, ông May-ơ nộp đơn theo học ngành Quan hệ quốc tế tại một trường đại học ở Mỹ. Ông cho biết, sở dĩ ông lựa chọn ngành này vì ở đó ông có điều kiện nghiên cứu kỹ hơn về cuộc chiến tranh Việt Nam. Càng tìm hiểu sâu, ông càng thấm thía được nỗi đau mất nước của người dân Việt Nam, những nỗi đau cả vật chất và tinh thần nối từ thế hệ này sang thế hệ khác mà cho đến tận bây giờ vẫn còn đeo đẳng. Đó cũng là lý do ông tham gia vào Hội Cựu chiến binh Mỹ vì hòa bình, một tổ chức có tới hơn 70 nghìn hội viên trong đó có nhiều người là CCB Mỹ tại Việt Nam.
Bồi hồi nhớ lại người bạn đã quá cố của mình, ông May-ơ kể, bà Gioan Đa-phi là y tá trong một đơn vị đóng quân ở Đà Nẵng. Vào những năm 1969-1970, Mỹ rải chất độc da cam hai lần một ngày xung quanh khu vực của cảng Cam Ranh. Chính vì lượng chất độc rải quá nhiều như vậy nên những người bị phơi nhiễm không chỉ có người Việt Nam mà có cả lính Mỹ. Trong số 8 người trong cùng đơn vị với bà Đa-phi đã có 5 người chết vì ung thư do chất độc da cam gây nên.
“Nhẽ ra, bà Đa-phi đã chết cách đây 2 năm rưỡi, nhưng không biết điều kỳ diệu gì đã cho phép bà sống thêm một thời gian nữa”. Và trong thời gian ngắn ngủi đó, tháng 3-2006, bà đã kịp trở lại Việt Nam tham dự Hội thảo quốc tế về chất độc da cam ở Việt Nam theo đúng tâm nguyện của mình. Về nước trong thể trạng rất yếu, bà vẫn nung nấu ý định làm việc gì thật ý nghĩa cho các nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam. Hiểu được nỗi lòng của bà, một ca sĩ và cũng là thành viên trong Hội CCB Mỹ vì hòa bình đã đứng ra tổ chức buổi hòa nhạc để quyên tiền theo nguyện vọng của bà. Ba tuần sau khi bà mất, ca sĩ này đã viết thư điện tử gửi đi khắp nước Mỹ. Cuộc vận động đã thu hút được rất nhiều người tham gia.
“Thế nên, khi cầm số tiền bé nhỏ đến trao lại cho VAVA theo ước nguyện của bà Đa-phi, tôi thực sự rất vui. Nhưng nghĩ đến người bạn của mình, tôi không thể chạnh lòng”, ông May-ơ nói. Thế nhưng, nỗi buồn ấy đã nhanh chóng được xoa dịu trước sự đón tiếp nhiệt tình của những người bạn Việt Nam. Trong nỗi xúc động, ông May-ơ nói rằng, Chính quyền Mỹ cần phải làm một việc gì đó thiết thực cho nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin Việt Nam.
KIM OANH