Cuộc đụng độ tàu ngầm có một không hai diễn ra vào cuối Chiến tranh thế giới lần thứ hai ở ngoài khơi bờ biển Nauy. Ngày 9-2-1945, tàu ngầm HMS Venturer của Anh phóng ngư lôi đánh chìm tàu ngầm Đức U-864 đang chở nguyên vật liệu chiến lược đến Nhật Bản.

Thủy ngân và công nghệ tiên tiến cho Nhật Bản

Cuối năm 1944, tất cả những ai nắm rõ tình hình chiến sự đều hiểu rằng, các nước phe “Trục” sẽ thất bại trong cuộc chiến. Sự thực, tại Berlin và Tokyo vẫn còn nhiều kẻ hoạt động chính trị và quân sự cuồng tín sẵn sàng làm tất cả những gì có thể để tranh thủ thêm càng nhiều thời gian càng tốt, trong đó có việc giành lấy mạng sống cho mình.

Vào cuối Thế chiến II, Đức Quốc xã cố gắng hỗ trợ đồng minh của mình ở Thái Bình Dương nhằm kéo dài sự tham gia của Nhật Bản vào cuộc chiến. Berlin sẵn sàng cung cấp cho Tokyo những công nghệ tiên tiến và nguyên vật liệu khan hiếm. Người Đức hy vọng sẽ kéo dài sự kháng cự của người Nhật và tranh thủ thêm cho mình vài tháng, nhằm chỉnh đốn tình hình nguy nan trên các mặt trận. Cuối cùng, Berlin đã bị quân đội Liên Xô tấn công, còn Nhật Bản trụ lâu hơn đồng minh châu Âu của mình thêm được một thời gian ngắn.

Tàn tích còn sót lại của tàu ngầm Đức U-864 cách không xa đảo Fedje. 

Tháng 12-1944, phát xít Đức bắt đầu chiến dịch cuối cùng mang mật danh “Caesar”. Mục đích của chiến dịch này là chuyển giao cho Nhật Bản những công nghệ tiên tiến và nguyên vật liệu khan hiếm. Phương án duy nhất để đến được Nhật Bản là sử dụng những chiếc tàu ngầm đại dương cỡ lớn của Đức. Bởi tại thời điểm đó, tàu mặt nước không có bất cứ cơ hội nào để đến được bờ biển Nhật Bản.

Trong chiến dịch “Caesar”, Bộ tư lệnh Đức đã sử dụng tàu ngầm đại dương cỡ lớn loại IXD2. Chiếc tàu ngầm này có nhiệm vụ vận chuyển đến Nhật Bản các bản vẽ và linh kiện máy bay tiêm kích phản lực hiện đại của Đức. Đặc biệt là những bản vẽ và linh kiện của máy bay dùng động cơ tên lửa Ме-163 Komet, máy bay tiêm kích Ме-262 và động cơ phản lực do Đức sản xuất, cũng như những bản hợp đồng đã ký kết để sản xuất theo giấy phép tại đất nước Mặt trời mọc.

Bên cạnh đó, trên tàu ngầm còn có các bản vẽ của tàu ngầm loại Caproni và Satsuki, bản vẽ trạm vô tuyến định vị của Tập đoàn Siemens, cùng những bản vẽ máy bay tiêm kích phản lực Campini của Ý. Theo thông tin của nhà nghiên cứu người Mỹ về chiến tranh tàu ngầm ở Đại Tây Dương, ông Clay Blair, hành khách đi trên chuyến tàu ngầm đó có cả một số nhà chế tạo người Đức và Nhật Bản.

Hàng hóa nguy hiểm nhất trên tàu ngầm Đức là thủy ngân với tổng trọng lượng khoảng 65 tấn. Kim loại hiếm này là rất cần thiết cho ngành công nghiệp quân sự của Nhật Bản.

Tính năng của hai tàu ngầm đối địch

Nhiệm vụ tối mật và nguy hiểm đã được giao cho tàu ngầm đại dương cỡ lớn loại IXD2 mang ký hiệu U-864 thực hiện. Những chiếc tàu ngầm loại này là đỉnh cao công nghệ tàu ngầm đại dương của Đức. Đây là tàu ngầm cỡ lớn có lượng choán nước khi ở trên mặt nước là 1.616 tấn và khi ở dưới nước là 2.150 tấn. Chiều dài tối đa thân tàu là 87,6 mét, chiều rộng 7,5 mét, độ sâu giới hạn 230 mét.

Dàn động cơ diesel-điện của tàu ngầm gồm 2 động cơ diesel công suất 2700 mã lực mỗi chiếc và 2 động cơ điện công suất 505 mã lực mỗi chiếc. Những động cơ này đảm bảo cho tàu di chuyển với tốc độ tối đa trên mặt nước là 19,2 hải lý một giờ và dưới nước 6,9 hải lý một giờ.

Trên tàu ngầm loại IXD2 được trang bị vũ khí rất mạnh. Tàu mang 24 quả ngư lôi và 6 ống phóng cỡ nòng 533 mm. Pháo trang bị trên tàu U-864 là một khẩu đại bác cỡ nòng 105 mm với 150 quả đạn, cũng như một súng máy phòng không cỡ nòng 37 mm và một chiếc cỡ nòng 20 mm.

Tàu ngầm HMS Venturer của Anh. 

Tàu ngầm U-864 được khởi công ngày 15-10-1942 tại nhà máy đóng tàu ở Bremen. Tàu được hạ thủy ngày 12-8-1943 và biên chế vào hạm đội hải quân ngày 9-12-1943. Chỉ huy tàu là thuyền trưởng Ralf-Reimar Wolfram.

Từ tháng 12-1943 đến cuối tháng 10-1944, tàu ngầm U-864 thuộc biên chế của hải đoàn huấn luyện. Ngày 1-11-1944, tàu được chuyển sang biên chế thuộc phân hạm đội tàu ngầm số 33 của Hải quân Đức Quốc xã. Những chiếc tàu ngầm của phân hạm đội này, ngoài chức năng tuần tra chiến đấu, còn được sử dụng để vận tải đường biển từ Nhật Bản đến Đức và từ Đức đến Nhật Bản các loại nguyên vật liệu chiến lược.

Người Anh đã biết đến chiến dịch “Caesar” thông qua những thông tin vô tuyến của Đức do tình báo bắt được và giải mã. Để chặn đánh tàu ngầm chở hàng có giá trị của kẻ thù, quân đội Anh đã điều tàu ngầm HMS Venturer với kích cỡ khiêm tốn hơn nhiều.

Lượng choán nước của tàu ngầm này khi ở trên mặt nước là 662 tấn, còn khi ở dưới nước là 742 tấn. Chiều dài tối đa thân tàu là 62,48 mét, chiều rộng 4,88 mét. Tàu trang bị 2 động cơ diesel công suất 400 mã lực mỗi chiếc và 2 động cơ điện công suất 450 mã lực mỗi chiếc. Ưu thế quan trọng của tàu ngầm Anh là tốc độ di chuyển dưới nước 10 hải lý một giờ. Tốc độ tối đa của tàu khi nổi là 11,25 hải lý một giờ, lặn sâu giới hạn 109 mét.

Trang bị vũ khí trên tàu cho dòng tàu ngầm U phổ biến của Anh cũng khiêm tốn hơn nhiều so với loại tàu ngầm của Đức. Tổng cộng có 8 quả ngư lôi và 4 ống phóng cỡ nòng 533 mm trên tàu. Tàu cũng được trang bị pháo trên boong cỡ nòng 76,2 mm và 3 súng máy phòng không cỡ nòng 7,62 mm.

Tàu ngầm HMS Venturer của Anh được khởi công ngày 25-8-1942 theo một chương trình quân sự và hạ thủy ngày 4-5-1943. Tàu được đưa vào sử dụng ngày 19-8-1943. Chỉ huy tàu là Trung úy Jimmy Launders. HMS Venturer tham gia tích cực vào những trận chiến từ tháng 3-1944 và đánh chìm một một số tàu thương mại của Đức và Nauy, cũng như tàu ngầm U-771 của Đức ngày 11-11-1944.

Tuy nhiên, nổi tiếng nhất được cho là trận chiến thứ 11 của tàu ngầm HMS Venturer dưới sự chỉ huy của Trung úy Jimmy Launders khi đó mới 25 tuổi. Trong khi đó, đối với thủy thủ đoàn tàu ngầm U-864 của Đức do thuyền trưởng Ralf-Reimar Wolfram 32 tuổi chỉ huy, thì trận chiến tháng 2-1945 lại là trận đầu tiên và cũng là cuối cùng.

Cuộc tấn công thắng lợi của tàu ngầm HMS Venturer

Tàu ngầm HMS Venturer được điều đến khu vực đảo Fedje dựa theo thông tin vô tuyến của Đức do tình báo Anh bắt được và giải mã. Tàu nhận lệnh tìm kiếm, chặn bắt và đánh chìm tàu ngầm U-864 của Đức đang vận chuyển hàng hóa chiến lược đến Nhật Bản.

Ngày 6-2-1945, tàu ngầm Anh đến khu vực được giao và bắt đầu thực hiện nhiệm vụ tuần tra. Lúc đó, Thuyền trưởng tàu ngầm Đức Ralf-Reimar Wolfram đã đi qua khu vực này, nhưng may mắn lại thuộc về phía người Anh. Ngày 8-2, người Anh xác định được tọa độ và hướng đi của tàu ngầm Đức, sau khi bắt được thông tin từ tàu U-864 báo về căn cứ rằng, tàu sẽ quay ngược trở lại Bergen do động cơ diesel gặp trục trặc. Người Đức tỏ ra cẩn thận nên quyết định quay trở lại căn cứ. Tuy nhiên, ngày 9-2-1945 trở thành ngày định mệnh đối với họ.

Hai chiếc tàu ngầm gặp nhau vào buổi sáng ngày hôm đó. Vào lúc 8 giờ 40 phút, nhân viên dò âm thanh trên tàu HMS Venturer nghe thấy tiếng ồn của chân vịt. Khi đó, Trung úy Jimmy Launders quyết định không sử dụng thiết bị thủy âm định vị để tàu mình không bị phát hiện. Chừng khoảng 10 giờ sáng, các thủy thủ Anh với sự hỗ trợ của ống nhòm ngầm đã phát hiện tàu ngầm Đức. Khi đó, Thuyền trưởng Ralf-Reimar Wolfram giương ống nhòm ngầm lên mặt nước, nỗ lực tìm kiếm những chiếc tàu của Đức đi ngang qua để xin hỗ trợ đưa tàu ngầm về căn cứ. Lúc đó, tàu U-864 chỉ chạy bằng một động cơ diesel và sử dụng đến cả ống thông hơi.

Phần mũi tàu ngầm U-864 của Đức nằm cách không xa đảo Fedje. 

Chờ một lúc sau, vào 10 giờ 50 phút, Trung úy Jimmy Launders ra hiệu lệnh chiến đấu. Lúc đó, Launders vẫn chưa nhận đủ thông tin để quyết định phóng ngư lôi. Chỉ huy tàu HMS Venturer khi đó đã biết góc phương vị nhắm đến mục tiêu, nhưng cũng cần phải có thêm thông tin về hướng đi, tốc độ và khoảng cách đến mục tiêu. Tàu HMS Venturer bắt đầu di chuyển theo hướng song song bên phải của tàu ngầm Đức.

Cuộc truy đuổi vẫn tiếp tục diễn ra khá lâu. Trung úy Jimmy Launders chờ cho tàu ngầm Đức sẽ nổi lên và khi đó mục tiêu sẽ dễ bị tấn công hơn. Tuy nhiên sau đó mới biết rằng, các thủy thủ Đức không có ý định cho tàu nổi lên. Khi đó, tàu U-864 di chuyển theo đường zíc zắc, bởi có lẽ các thủy thủ trên tàu nghi ngờ bên cạnh có tàu địch. Căn cứ vào thông tin gián tiếp nhận được, bằng cách thay đổi góc phương vị nhắm đến mục tiêu theo sự di chuyển của tàu mình, Launders có thể ước tính được khoảng cách đến mục tiêu, cũng như tốc độ của tàu ngầm U-864 và kích thước áng chừng những đoạn đường gấp khúc mà tàu Đức đi qua.

Thỉnh thoảng, cả hai chiếc tàu lại giương ống nhòm ngầm lên, và Trung úy Jimmy Launders lợi dụng những lúc này để xác định góc phương vị nhắm đến mục tiêu. Chỉ huy tàu HMS Venturer mất 3 giờ đồng hồ để tính toán trước khi hành động. Khoảng thời gian này đủ để Launders chắc chắn đã hiểu rõ đường đi zíc zắc và các thông số di chuyển của tàu ngầm U-864.

Vào lúc 12 giờ 12 phút trưa, tàu ngầm HMS Venturer tiến hành phóng loạt 4 quả ngư lôi vào điểm đã được tính toán. Khoảng thời gian ngư lôi phóng ra cách nhau 17,5 giây. Trên tàu ngầm Đức nghe thấy tiếng ồn của ngư lôi bay đến và bắt đầu lắc lư rồi chìm xuống sâu hơn. Ba quả ngư lôi đầu tiên đi trượt mục tiêu, nhưng quả thứ tư đã trúng thẳng vào khu vực mui tàu U-864 của Đức.

Vào lúc 12 giờ 14 phút, Trung úy Jimmy Launders đã viết trong nhật ký hành trình rằng, anh đã nghe thấy âm thanh lớn phát ra từ tiếng nổ, tiếp đó là những âm thanh của thân tàu bị vỡ. Trong khi đó, nhân viên dò âm thanh trên tàu ngầm Anh báo cáo rằng, anh ta không còn nghe thấy tiếng ồn của chân vịt tàu ngầm Đức nữa. Vì trúng ngư lôi phát nổ, nên thân tàu ngầm U-864 của Đức vị vỡ ra làm đôi, rồi chìm xuống độ sâu khoảng 150 mét cùng 73 người trên tàu thiệt mạng.

Với thắng lợi trong trận chiến duy nhất được biết đến khi cả hai tàu ngầm đang ở dưới nước, Trung úy Jimmy Launders được tặng thưởng Huân chương “Vì chiến công xuất sắc”. Các thủy thủ tàu ngầm Đức vĩnh viễn nằm lại dưới độ sâu 150 mét cách hòn đảo Fedje của Na Uy 2 hải lý.

Ngày nay, đây là vấn đề sinh thái nghiêm trọng đối với Na Uy mà nước này đang nỗ lực để xử lý. Tuy nhiên, hiện Na Uy vẫn chưa đạt được thống nhất về việc trục vớt con tàu và hàng hóa nguy hiểm bên trong lên, hay bảo quản ngay dưới đáy biển toàn bộ những gì phát hiện được từ con tàu.

QUỐC KHÁNH (theo Topwar)