QĐND - Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của mỗi quốc gia dân tộc. Các điều khoản, quy định của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế chính trị xã hội. Nó nói lên tính ưu việt của chế độ xã hội và phản ánh sâu sắc quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của một nước độc lập, tự do, thật sự có Tổ quốc và là chủ nhân xây dựng và bảo vệ đất nước, nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình, nơi mình đã sinh ra, lớn lên, trở thành một con người.

Hiến pháp mới là sự kết tinh trí tuệ, tâm huyết, ý nguyện của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; thể hiện sâu sắc tinh thần đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của cách mạng; phù hợp với tâm tư, nguyện vọng, ý chí của tuyệt đại đa số nhân dân; là thành quả cách mạng to lớn mà nhân dân ta, dân tộc ta đã giành  được. 

Đại biểu ấn nút biểu quyết thông qua dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Ảnh: TTXVN.

Với nhiều nội dung mới, chứa đựng hàm lượng khoa học sâu sắc, tính chân thực, chính xác, rõ ràng, bản Hiến pháp mới đã toát lên sức sống mới, tinh thần mới, rất sinh động, sáng tạo; phản ánh đúng đắn tình hình thực tiễn công cuộc đổi mới toàn diện đất nước gần 30 năm qua do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua muôn ngàn chông gai, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những nội dung mang tính thời sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm theo dõi, bàn luận của nhiều người cả ở trong nước và bạn bè quốc tế, thậm chí cả các thế lực thù địch vì nó liên quan trực tiếp đến sinh mệnh, sự sống còn của quốc gia dân tộc Việt Nam trong bối cảnh phức tạp hiện nay là nội dung Chương 4 về Bảo vệ Tổ quốc và một số điều khoản khác trong bản Hiến pháp năm 2013 có quan hệ mật thiết với các nội dung của chương này.

Điều 1 của bản Hiến pháp mới khẳng định rõ: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Vì vậy, mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị. Đối với mỗi người Việt Nam yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc là thiêng liêng, là bất khả xâm phạm và bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình để nhân dân an tâm sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng đất nước; phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là niềm vinh dự, tự hào; là quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của mỗi công dân. Tại khoản 2, Điều 44 của bản Hiến pháp mới viết: “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”.

Nét mới và là một trong những điểm độc đáo, đặc sắc của bản Hiến pháp năm 2013 nói chung, của Khoản 1, Điều 64, Chương 4 về bảo vệ Tổ quốc nói riêng là sự khẳng định rõ ràng, nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta về việc: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”. Giờ đây, trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta hiểu sâu sắc rằng, chủ thể bảo vệ Tổ quốc là toàn thể nhân dân ta, là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là sự tác động biện chứng giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tức là bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và bảo vệ thành quả cách mạng; bảo vệ nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc v.v.. Điều đó thể hiện rõ sự quyết tâm của Đảng và nhân dân ta, của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ vùng trời, vùng đất, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa, khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên…

Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong Chương 4, tại các Điều 64, 65 và 66 của bản Hiến pháp đều nhấn mạnh việc củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; trong đó ba lần nhấn mạnh vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân. Điều 64 viết: “Tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân”. Điều 66 viết: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng". Điều  67 viết: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.

Khác với sự diễn đạt trước đây, trong bản Hiến pháp mới này, Quốc hội đã tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân, đã đưa cụm từ “Nhân dân” xếp sau cụm từ “Tổ quốc” và trước cụm từ “Đảng, Nhà nước”. Đồng thời, khi bàn về nhiệm vụ bảo vệ đã xếp cụm từ “bảo vệ nhân dân” trước cụm từ bảo vệ “Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Có thể thấy rõ điều này qua Điều 65 của bản Hiến pháp mới: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế".

Lần này, trong bản Hiến pháp năm 2013, Quốc hội bổ sung cụm từ mới và khẳng định rõ vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân là: “Cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Đây là cơ sở để lực lượng vũ trang nhân dân ta (Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) sẽ triển khai việc tham gia một số hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn nhân đạo, “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới"  (Khoản 2, Điều 64). Tại Điều 68, lần đầu tiên, Quốc hội đưa vào Hiến pháp việc quan tâm, chăm lo “giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân”. Đồng thời khẳng định, bên cạnh việc đẩy mạnh việc xây dựng nền công nghiệp quốc phòng thì đồng thời, quan tâm xây dựng nền công nghiệp an ninh nhân dân. Chủ trương đầu tư, phát triển công nghiệp quốc phòng và công nghiệp an ninh nhân dân là nhằm “bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang” vững mạnh toàn diện, tiến lên chính quy, từng bước hiện đại, phù hợp với điều kiện nền kinh tế và khuyến khích sự phát triển khoa học công nghệ, kỹ thuật quân sự và công an, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Cùng với các điểm mới nêu trên, trong Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã đưa vào cụm từ “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh”. Đây là kết quả của sự phát triển tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, góp phần giải quyết tốt hơn mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh và ngược lại. Ngoài 5 điều nêu trong Chương 4 về bảo vệ Tổ quốc, trong Hiến pháp mới còn một số điều, khoản có nội dung mới được Quốc hội tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân và đã đưa vào Hiến pháp năm 2013. Chẳng hạn, tại khoản 5, Điều 88 có viết: Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn: “Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”. Tại khoản 3, Điều 96 viết về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ: Quản lý “quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân”.

Việc hiểu đúng, nhận thức sâu sắc các vấn đề nêu trên không những giúp chúng ta sống và làm theo Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm minh, có trật tự, kỷ cương mà còn góp phần đấu tranh chống lại những nhận thức lệch lạc, những quan điểm sai trái, thù địch, phản động; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tá, PGS, TS NGUYỄN BÁ DƯƠNG

Viện trưởng Viện Khoa học xã hội và nhân văn Quân sự (Bộ Quốc phòng)