QĐND Online - Trong khuôn khổ của Festival Lúa gạo Việt Nam lần hai năm 2011 diễn ra tại Sóc Trăng, Ban tổ chức Festival Lúa gạo đã phối hợp với các cơ quan ngành nông nghiệp tổ chức một số hội thảo về việc sản xuất lúa gạo của nước ta. Tại các hội thảo trên, vấn đề mà các đại biểu, nhà khoa học quan tâm nhất là làm thế nào để nâng cao giá trị vốn có của cây lúa chúng ta và đảm bảo đời sống, lợi ích chính đáng của người trồng lúa.
Triển vọng cho nền nông nghiệp
Trong nhiều năm qua, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự phấn đấu của hàng triệu hộ nông dân trong cả nước nên nền nông nghiệp đã đạt được những thành tựu to lớn, nổi bật nhất là việc sản xuất lúa gạo. Hiện nay, năng suất lúa bình quân đạt trên 5,4 tấn/ha/vụ, trong nhiều năm qua luôn dẫn đầu trong các nước ASEAN, trong đó nhiều vùng đã đạt năng suất trên 7 tấn/ha trong vụ đông xuân (mức tiên tiến của thế giới hiện nay). Hàng năm, số lượng và sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không ngừng gia tăng.
Trước đây, nông dân Việt Nam chúng ta chỉ chủ yếu xuất khẩu gạo trong vụ đông xuân, do vậy giá cả thường bị ép giảm thấp trong thời điểm thu hoạch, lượng xuất khẩu trong năm cũng khó gia tăng. Hiện nay, lượng xuất khẩu gạo cũng đã thực hiện quanh năm. Nếu giá cả tiếp tục gia tăng, sản lượng sản xuất của Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng. Các cải thiện sau thu hoạch và quản trị ngay từ lúc xuống giống nếu được đầu tư tốt sẽ tiếp tục làm ngạc nhiên giới xuất khẩu khi chúng ta tiếp tục gia tăng lượng gạo xuất khẩu trong những năm tới.
 |
Việc ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất lúa gạo đã góp phần tăng thu nhập cho người trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long. |
Ông Võ Hùng Dũng, Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh Cần Thơ, cho rằng: “Năng lực sản xuất lúa gạo của nước ta có thể tiếp tục gia tăng trong thời gian tới nếu giá cả tiếp tục ổn định. Đến năm 2015, chúng ta có thể có sản lượng 44-45 triệu tấn lúa và xuất khẩu trên 9 triệu tấn gạo. Do nhu cầu thế giới tăng cao, diễn biến thời tiết phức tạp và các nước sử dụng lúa gạo vẫn chưa có những thay đổi đáng kể về sản lượng”.
Nhiều thách thức lớn
Việc sản xuất lúa gạo của nước ta, nhất là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong nhiều năm qua vẫn tập trung chủ yếu vào hướng mở rộng diện tích sản xuất và gia tăng năng suất. Thực tế, việc mở rộng diện tích lúa có giới hạn trong khi các biện pháp nhằm gia tăng năng suất lúa vẫn chưa được thực hiện đồng bộ. Đến nay, ĐBSCL vẫn chưa đề ra quy trình sản xuất lúa cơ bản cho toàn vùng và cụ thể cho các tiểu vùng sinh thái. Do vậy, sự gia tăng năng suất, sản lượng vẫn mang tính bấp bênh, tùy thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên, thời tiết, khí tượng và sự phát sinh, phát triển của dịch hại, việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vẫn còn mang tính riêng lẻ ở từng khu vực,…
Ông Bùi Chí Bửu, Phó giám đốc Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam, cho biết: “Thực tế, doanh nghiệp và người nông dân không sòng phẳng trong việc mua bán. Không lý gì mà diện tích nông nghiệp trồng lúa chỉ có 4 triệu ha, có thành tích 41 triệu tấn mà người nông dân lại còn quá nghèo. Giải pháp nâng cao thu nhập cho người nông dân là phải pháp khó nhất, bế tắc nhất của nước ta. Trong nhiều hội thảo, chính phủ rất quan tâm tìm giải pháp cho bà con nông dân có thu nhập cao hơn. Người dân chúng ta còn sản xuất quá nhỏ lẻ, có những vùng sản xuất lúa từ sông Tiền trở lên quy mô nông hộ từ 3.000-5.000m2, vùng từ sông Hậu trở xuống may ra có 1 ha đến trên 1 ha, trong khi các nước châu âu trung bình 10 đến 50 ha/ 1 nông dân, như vậy mới có thu nhập cao được”.
Ông Hồ Cao Việt, Giảng viên Viện khoa học Kỹ thuật miền Nam, nhận định: tình hình kinh doanh - xuất khẩu gạo của nước ta vẫn còn thiếu một chiến lược xuất khẩu; chưa có những phân tích thị trường lúa gạo quốc tế một cách bài bản; chưa đánh giá được năng lực của doanh nghiệp Việt Nam có đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về lượng và về chất hay không; khách hàng mục tiêu của gạo Việt là ai?... Vì thế nên các doanh nghiệp và người nông dân vẫn buôn bán theo chuyến, theo cách “ai mua thì tôi bán” và “bán thứ mình có chứ không bán thứ mà thị trường cần”, gây thiệt hại nguồn tài nguyên nội địa (thu nhập nông dân trồng lúa không được đền bù xứng đáng, hủy hoại môi trường do sử dụng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật để tăng vụ và tăng năng suất,…).
Cũng theo ông Việt, một “đối thủ cạnh tranh” trong ngành lúa gạo của Việt Nam là Thái Lan có chiến lược rất rõ ràng và thông minh, họ xuất khẩu gạo thơm, gạo đặc sản với giá bán rất cao, cao hơn nhiều so với gạo thường nhằm tăng giá trị gia tăng, nâng giá trị hạt gạo và tăng lợi tức cho nhà nông; không thâm canh và tăng đến 3 vụ lúa/năm nhằm giảm những chi phí sản xuất không cần thiết (thuốc bảo vệ thực vật) và tái tạo độ phì nhiêu của đất cũng như mục tiêu bảo vệ môi trường được đảm bảo. Với chiến lược này, Thái Lan vẫn giữ vị trí hàng đầu về lượng gạo xuất khẩu, về kim ngạch xuất khẩu gạo, lợi nhuận cho các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị lúa gạo, bảo vệ môi trường và sức khỏe cho người sản xuất, giá trị gia tăng toàn chuỗi rất cao…
Giải pháp nâng cao giá trị lúa gạo
Theo ông Bửu, ngành nông nghiệp cần làm tổ chức lại sản xuất và có chiến lược xuất khẩu gạo đầy đủ từ hạt gạo. Việc nhân rộng cánh đồng mẫu lớn, tập hợp diện tích đất ruộng của bà con nông dân nhỏ nhất phải là 400 ha, lớn nhất là 600 ha và đằng sau họ phải là doanh nghiệp.
Ông Phạm Văn Dư, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cho biết: “Ngoài việc chuyển đổi cơ cấu giống theo hướng năng suất, chất lượng cao, chống chịu được sâu bệnh, thích ứng được với biến đổi khí hậu và phù hợp với điều kiện đất phèn, mặn; vấn đề chuyển đổi cơ cấu mùa vụ được xem là nhân tố tác động và thúc đẩy sản xuất lúa gạo chất lượng cao. Cơ cấu mùa vụ chịu tác động của điều kiện thời tiết, khí tượng thủy văn và là yếu tố quyết định trong việc giảm áp lực rầy nâu cũng như các loại dịch hại khác. Trong canh tác lúa 3 vụ áp lực sâu bệnh sẽ ngày càng gia tăng, do vậy, việc sắp xếp lịch thời vụ phải tập trung và thời gian xuống giống của mỗi vụ cũng phải ngắn lại.
Bài và ảnh: VĂN XÂY