QĐND - Lê-dếch Bu-din-xki (Leszek Buszynski) là học giả Trường An ninh quốc gia thuộc Đại học ô-xtrây-li-a. Tại Hội thảo "Hoàng Sa-Trường Sa: Sự thật lịch sử", diễn ra ở TP Đà Nẵng từ ngày 19 đến 21-6 vừa qua, học giả này đã có tham luận nhan đề: Tính pháp lý và sức nặng trong yêu sách của Trung Quốc đối với Biển Đông, phân tích khá cặn kẽ những động cơ cũng như tham vọng của Trung Quốc trong mưu đồ độc chiếm Biển Đông. Báo Quân đội nhân dân xin lược thuật bài tham luận này.
 |
Các học giả quốc tế tham dự Hội thảo "Hoàng Sa-Trường Sa: Sự thật lịch sử". Ảnh: Yên Ba |
Phần 1: Động cơ cho các yêu sách của Trung Quốc
Yêu sách của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông rất mơ hồ và dựa trên hai cơ sở không chắc chắn.
Đầu tiên là bản đồ "đường chữ U", hay "đường chín đoạn" (nay đã thành mười đoạn-PV), ban hành năm 1947, nhưng đường này lại không được xác định bằng những thuật ngữ pháp lý. Bản thân người Trung Quốc cũng không rõ là đường này thể hiện cái gì và vẫn chưa quyết định về tác dụng pháp lý của nó.
Điều thứ hai là tính lịch sử, như người Trung Quốc liên tục nói đến những quyền "cổ xưa" để biện minh cho đòi hỏi của mình. Yêu sách rằng khu vực này đã là của Trung Quốc trong quá khứ không thể chứng minh được theo cách mà nó đáp ứng các tiêu chuẩn pháp lý hiện nay. Các đại diện của Bắc Kinh đưa ra khẳng định về "chủ quyền không tranh cãi" đối với Biển Đông không được kiểm chứng. Thiếu một cơ sở pháp lý rõ ràng nên Trung Quốc đang sử dụng các chiến thuật quấy nhiễu để tăng cường đòi hỏi của mình, và đó là cái quyền đứng trên pháp luật!
Hành động của Trung Quốc làm tăng căng thẳng và tăng nguy cơ gây ra sự không ổn định trong một vùng chiến lược quan trọng đối với giao thương trong khu vực. Khoảng 48% thương mại của thế giới đi qua Biển Đông, nối Nhật Bản, Hàn Quốc và miền Nam Trung Quốc với châu âu và các mỏ dầu ở Trung Đông.
Trung Quốc bị lôi cuốn bởi nhiều động cơ khác nhau trong các thời điểm khác nhau. Đầu tiên đó là mong muốn loại những đối thủ của mình ra khỏi một khu vực rất quan trọng đối với giao thương của Trung Quốc, hiện nay cũng như thời các vương triều trước đây. Trung Quốc không đặt ra đòi hỏi đối với Hoàng Sa cho đến khi Pháp thâm nhập vào khu vực này và gây ra cuộc chiến với nhà Thanh năm 1884-1885. Cũng tương tự như vậy, Trung Quốc không yêu sách đối với quần đảo Trường Sa cho đến khi Nhật Bản và Pháp tranh giành quyền kiểm soát tại khu vực này trong những năm 30 của thế kỷ trước.
Thứ hai là các nhà quan sát tranh chấp thường cho rằng có thể giải thích là do dầu lửa và vì vậy nó liên quan đến các yêu sách cạnh tranh với nhau về nguồn hydrocarbon. Dầu lửa trở thành một nhân tố trong tính toán của Trung Quốc khi năm 1976, Phi-líp-pin lôi kéo một công ty dầu lửa của Thụy Điển bắt đầu khoan dầu trong khu vực Trung Quốc yêu sách. Dầu lửa ở Biển Đông khi đó trở thành quan trọng cho cố gắng hiện đại hóa của Trung Quốc, mặc dù Trung Quốc đã thổi phồng trữ lượng hydrocarbon ở đó.
Thứ ba là Biển Đông trở thành một chủ đề cho chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa, là sản phẩm của sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc và một tình cảm lan truyền rằng Trung Quốc đã từng chịu đựng sự bất công khi vùng lãnh thổ "bị mất" vào tay các thế lực bên ngoài trong thế kỷ XIX. Việc khôi phục lại vùng lãnh thổ "bị mất" định hướng cho các hành động của Trung Quốc đối với tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư cũng như Biển Đông và hàm ý cho các tranh chấp lãnh thổ khác như biên giới Trung Quốc với ấn Độ.
Động cơ thứ tư là Biển Đông quan trọng đối với hải quân Trung Quốc như là một khu vực để triển khai các tàu ngầm hạt nhân chiến lược đang đóng ở căn cứ Tam á thuộc đảo Hải Nam. Biển Đông là khu vực có độ sâu 2000m nước mà tàu ngầm loại Jin (lớp Tấn-PV) trú đậu ở Tam á có thể được triển khai luân phiên. Biển Đông cũng cung cấp cho các tàu ngầm một lối ra biển cả mà ở đó chúng có thể được điều động tuần tra theo cơ chế thường lệ.
Mỗi động cơ có những tác động khác nhau cho cách giải quyết vấn đề và cho cách ứng xử và hành động của Trung Quốc. Nếu việc loại bỏ các thế lực bên ngoài là động cơ chính yếu trong cách thức của Trung Quốc thì giải pháp cho vấn đề sẽ khả thi một khi việc chi phối của thế lực bên ngoài đối với khu vực được ngăn chặn. Nếu hydrocarbon là động cơ chính cho đòi hỏi của Trung Quốc, thì giải pháp hợp tác cùng khai thác sẽ khả thi, một khi các công ty dầu khí của Trung Quốc cũng được tham gia.
Nếu đơn giản chỉ là Trung Quốc đòi hỏi có sự chia sẻ đối với nguồn tài nguyên dầu và khí thì một giải pháp công bằng có thể được đàm phán để triệt tiêu tranh chấp và cho phép thực hiện ngay việc khai thác các tài nguyên này. Việc Trung Quốc không sẵn sàng cân nhắc một giải pháp theo hướng này cho thấy các động cơ khác đang có tác dụng và ngăn chặn đàm phán với các nước yêu sách trong ASEAN trên cơ sở này.
Tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông đối với hải quân có nghĩa là các thế lực bên ngoài phải để tàu của mình tại căn cứ và không được phép đe dọa các triển khai của hải quân (Trung Quốc) trong khu vực.
Tương tự như vậy, chủ nghĩa dân tộc đòi hỏi phải sáp nhập Biển Đông và đặt tình hình an ninh của nó trong biên giới Trung Quốc. Một khi khu vực này được tuyên bố thuộc lãnh thổ Trung Quốc nó sẽ rất khó cho bất kỳ giới lãnh đạo Trung Quốc nào phải thỏa hiệp với các nước yêu sách khác thuộc ASEAN.
Kết quả cuối cùng là Trung Quốc đòi hỏi kiểm soát toàn bộ Biển Đông để thỏa mãn các động cơ này, và mặc dù giới lãnh đạo có thể cân nhắc phương cách giải quyết tranh chấp nhằm làm giảm căng thẳng thì nó cũng bị các lực lượng trong nước đẩy lên để tìm cách thống trị trong khu vực.
Về yêu sách "đường chữ U" của Trung Quốc
Trong báo cáo của ủy ban Thanh tra Bản đồ Đất và Nước của Chính phủ Trung Quốc ngày 7-6-1933 có bao gồm một bản đồ Biển Đông, sau đó được in tháng 4-1935. Chính phủ của Trung Quốc khi đó in tấm bản đồ với "đường chữ U" vào tháng 12-1947 với 11 đoạn. Sau đó nó thể hiện yêu sách của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa. "Đường chữ U" sau này được CHND Trung Hoa kế thừa và trở thành cơ sở mặc dù hai đoạn đã được bỏ đi năm 1953 như là sự nhượng bộ đối với Việt Nam ở khu vực vịnh Bắc Bộ.
"Đường chữ U" hay "đường chín đoạn" của Trung Quốc thiếu hẳn cơ sở pháp lý cho yêu sách của Trung Quốc vì nó không được xác định bởi tọa độ chính xác và cũng không rõ là yêu sách đối với các đảo hay yêu sách lãnh hải. Quan điểm được thừa nhận rộng rãi rằng đây là yêu sách đối với các đảo và các vùng nước xung quanh trong khuôn khổ "đường chín đoạn", và yêu sách này thể hiện "ranh giới biển truyền thống" của Trung Quốc trên Biển Đông. Nếu điều này là đúng thì liệu "các vùng nước xung quanh" được xác định như thế nào?
Trung Quốc muốn yêu sách đối với toàn bộ vùng biển thuộc các đảo ở đó, bao gồm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, nhưng sự thông hiểu về pháp lý sẽ giới hạn các vùng biển do các đảo tạo ra trong trường hợp các yêu sách chồng lấn với nhau. Tiêu chuẩn về chiều dài đường bờ biển vận dụng trong trường hợp này sẽ tạo sức nặng cho Việt Nam và Phi-líp-pin hơn là với Trung Quốc.
Các lập luận khác của Trung Quốc cho rằng đường chữ U thể hiện quyền sở hữu đối với các đảo và không phải là yêu sách đối với vùng nước nằm trong đường này, và vì vậy "nó không phải là ranh giới biển theo ý nghĩa thông thường". Tuy vậy vẫn có những cách hiểu khác rằng "đường chữ U" thể hiện yêu sách của Trung Quốc đối với các vùng nước nằm trong "đường chữ U", trong đó có cả quyền lưu thông, quyền đánh cá và quyền khai thác khoáng sản. Một số cho rằng đường này "không phải là đường ranh giới của lãnh hải và không phải là độc quyền", và vì vậy nó không ngăn cản quyền tự do bay hay lưu thông hàng hải, và cũng không đối kháng với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Thực sự là "đường chữ U" gây nên sự nhầm lẫn. Mặc dù thiếu sự giải thích nhưng vào tháng 5-2009, Trung Quốc vẫn gắn một cái bản đồ kèm theo công hàm ngoại giao gửi đến ủy ban Ranh giới ngoài thềm lục địa của Liên hợp quốc để chống lại yêu sách của Việt Nam và Phi-líp-pin.
Văn Yên (lược thuật)
(còn nữa)