Dù đã cuối mùa nước nổi nhưng lượng trái cây, gạo, đường cát Thái Lan nhập lậu vẫn theo con nước tràn vào thị trường nội địa nước ta. Nam Bộ mùa này tràn ngập hàng nông sản ngoại, làm cho sản phẩm nội bị lép vế ngay trên sân nhà. Hiện tượng này năm nào cũng xảy ra. Người nông dân cứ loay hoay điệp khúc “được mùa, mất giá”. Ngưỡng cửa WTO đang mở ra. Với hơn 80% nhân lực lao động và sản phẩm hàng hóa, nếu không có những “bà đỡ’ giúp nông dân vượt lên, sự khó khăn lại càng chồng chất...
Từ những “rào cản” trong tư duy...
Trong một lần trao đổi với phóng viên báo Quân đội nhân dân, đồng chí Huỳnh Minh Đoàn, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp kể: Khi về cơ sở kiểm tra công tác xóa đói, giảm nghèo, ông đã chứng kiến những hiện tượng “dở mếu, dở khóc”. Có những hộ nghèo, được Nhà nước hỗ trợ cấp cho con bò để chăn nuôi. Nhận bò được vài ngày, nông dân dắt ngay đến...lò mổ, bán với giá chỉ bằng 2/3 giá trị vật nuôi. Lại có hộ nông dân, có ruộng đất đàng hoàng nhưng đã đem bán sạch, trở thành tay trắng, phải nương nhờ sự giúp đỡ, viện trợ. Có hộ, khi được xét vay vốn xóa đói, giảm nghèo cũng...ăn hết. Thế nên, mặc dù Đồng Tháp là một vựa lúa lớn của cả nước nhưng hiện tại vẫn còn một số nông dân không có ruộng đất, không có tư liệu sản xuất. Những ví dụ ấy, dù không phổ biến nhưng nó nói lên một thực tế, tư duy tự chủ, năng động trong làm ăn của một bộ phận lớn nông dân còn rất kém. Trình độ lao động thấp cùng với sự ỉ lại, gặp chăng hay chớ đang là một rào cản rất lớn của nông dân trong tiến trình hội nhập WTO.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng chủ lực của cả nước về hàng nông sản, nhưng ngay tại vựa nông sản này, người nông dân vẫn không thể tự mình làm chủ sản phẩm làm ra, ngược lại họ luôn bị hàng ngoại nhập tấn công. Xảy ra nghịch lý này là bởi hàng nông sản Việt Nam dù tổng sản phẩm là rất cao nhưng việc qui hoạch, phát triển còn mang tính tự phát, mùa vụ, chưa mang tính công nghiệp. Bài toán đầu ra và xây dựng thương hiệu sản phẩm đã được bàn tới rất nhiều nhưng vẫn chưa có lời giải hữu hiệu.
Số liệu thống kê của Vụ Kế hoạch, Bộ Nông nghiệp & PTNT cho thấy, qui mô hộ nông nghiệp Việt Nam còn quá nhỏ bé (khoảng 0,8 ha/hộ 5 người) nên nhìn toàn cục thì lớn mà nhìn nội lực thực chất thì lại thấp. Cho nên, khi vào WTO, sẽ rất dễ xảy ra tình trạng phát triển theo kiểu mạnh ngành nào thì ngành đó tiến, còn lại là giật lùi. Chẳng hạn những ngành đã khẳng định được vị thế như: Nuôi tôm, cá ba sa, một số chủng loại trái cây... sẽ thuận lợi hơn. Còn những ngành như: Mía đường, bò sữa... vốn bây giờ đã khó khăn, khi hội nhập càng khó khăn hơn. Mấu chốt cơ bản đối với nông dân Việt Nam hiện nay là sự bất hợp lý giữa “đóng góp” và "hưởng thụ”. Chẳng hạn, ở ĐBSCL, sản phẩm lao động của nông dân chiếm hơn 90% sản lượng lương thực, hơn 65% sản lượng thủy sản, đóng góp 17% GDP cả nước, nhưng mức sống bình quân của nông dân vẫn thấp nhất cả nước.
...Đến mô hình “bà đỡ” cho nông dân
Tại cuộc hội thảo về chủ đề “Nông dân làm gì để hội nhập kinh tế ?” tổ chức tại Cần Thơ mới đây, các nhà khoa học, nhà quản lý và các chuyên gia đã bàn về những vận hội và thách thức của nông dân Việt Nam khi hội nhập WTO. Một vấn đề được nêu lên là nông dân Việt Nam còn quá thiếu kiến thức nên qui trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa chưa tự chủ được mà phải đi trên đôi chân của người khác (phổ biến hiện nay là do thương lái thao túng). Trong bối cảnh hội nhập WTO, cùng với quá trình thực hiện chiến lược nâng cao kiến thức cho nông dân, cần có những sự trợ giúp theo kiểu “4 cùng”: Cùng ở cơ sở, cùng lao động, cùng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và cùng bảo đảm đầu ra cho sản phẩm. Nói cách khác, nông dân cần những “bà đỡ” thực sự gần mình, hiểu mình.
Chúng tôi đã tìm hiểu một số mô hình rất thành công theo cách này. Chẳng hạn, mô hình hỗ trợ nông dân do Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 959 thực hiện tại khu vực Giồng Găng, thuộc vùng Đồng Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp là một điển hình. Đoàn 959 đã triển khai xây dựng mô hình kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp khép kín. Từ việc chọn giống năng suất cao vào canh tác, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho đến hỗ trợ nông dân về đầu ra của sản phẩm đều được thực hiện một cách khoa học, bài bản. Năng suất lao động và chất lượng sản phẩm hàng hóa là hai vấn đề rất được chú trọng. Từ việc sản xuất lúa đại trà để giải quyết nhu cầu cuộc sống tại chỗ cho người dân, Đoàn 959 đã hỗ trợ, giúp nông dân chuyển đổi diện tích sản xuất lúa chất lượng cao, tạo nguồn gạo xuất khẩu, giúp nông dân tự chủ trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Tại Sóc Trăng, mô hình hỗ trợ nông dân nuôi bò sữa tại Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên, do tổ chức CIDA Ca-na-đa thực hiện cho gần 300 hộ dân cũng phát triển rất tốt. Cái được của mô hình này là lượng sữa bò ở trong dân được hỗ trợ tìm đối tác tiêu thụ ngay tại chỗ (điều mà hầu hết nông dân nuôi bò sữa trong cả nước không có được). Nhờ được hỗ trợ cụ thể về cách chọn giống, phương pháp nuôi, phòng ngừa bệnh tật và bảo đảm tốt đầu ra sản phẩm nên đây là một địa chỉ hiếm hoi trên cả nước ăn nên làm ra nhờ bò sữa.
Mô hình nuôi thủy sản tại xã Bảo Thuận, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre do Công ty chế biến và xuất khẩu thủy sản Bến Tre hỗ trợ, đã giúp hơn 1.000 hộ dân ở đây vươn lên mạnh mẽ. Ngoài những hộ có đất, vùng nuôi tôm này còn góp phần giải quyết việc làm thường xuyên cho 60% lao động trong xã với mức lương trung bình 800.000 đồng/tháng.
Những mô hình như chúng tôi vừa dẫn được thực hiện bằng những hình thức, cách làm khác nhau, nhưng đều có điểm chung nhất là người dân ở đó có được một “bà đỡ” rất mát tay. Ở vùng Giồng Găng, “bà đỡ” là Đoàn 959. “Bà đỡ” cho nông dân Mỹ Xuyên, Sóc Trăng nuôi bò sữa là tổ chức CIDA. Giữ vai trò này cho nông dân nuôi tôm ở Ba Tri, Bến Tre là một doanh nghiệp Nhà nước. Những đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp này đỡ đầu cho nông dân bằng phương pháp “4 cùng” nói trên. Khi được trực tiếp tiếp thu kiến thức, cách làm, cách kinh doanh từ những “bà đỡ” này... tầm tư duy của người nông dân trưởng thành rất nhanh ngay trên luống cày của mình. Điều này rõ ràng có hiệu quả hơn nhiều những cuộc tập huấn, hỗ trợ kiến thức theo kiểu ban hành văn bản hoặc giảng dạy lý thuyết suông mà các địa phương xưa nay vẫn thường làm, xong rồi thì “chữ thầy trả cho thầy”.
Gắn với những hình thức hỗ trợ
Theo ông Đoàn Ngọc Bông, Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, để giúp nông dân hội nhập một cách hiệu quả, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp theo lối mới, phù hợp với quy tắc chung của WTO. Bên cạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn, ứng dụng công nghệ mới, cung cấp thông tin thị trường, phát triển nguồn nhân lực...cần có ngay những chương trình doanh nghiệp tiếp sức, hỗ trợ, giúp nông dân tìm nguồn tiêu thụ sản phẩm trực tiếp, không để thương lái thao túng, ép giá. Vừa qua, hệ thống siêu thị bán sỉ Metro đã ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho một số nhà sản xuất nông sản theo đơn đặt hàng của UBND Thành phố Hồ Chí Minh trong việc hỗ trợ chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn thành phố. Cục Bảo vệ thực vật phối hợp với Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang (AGGPS) cũng vừa triển khai chương trình hỗ trợ nông dân sản xuất rau an toàn theo quy trình sản xuất tốt (GAP) cho nông dân ở các tỉnh, thành phố phía Nam, nhằm chuẩn bị cho sự cạnh tranh của rau quả Việt Nam trong môi trường WTO. Những hình thức hỗ trợ nông dân như vậy rất cần được nhân rộng ở các địa phương. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương để có áp dụng những hình thức, cách làm phù hợp.
Chiếm đến hơn 80% nhân lực lao động cả nước, nông dân không thể đứng ngoài cuộc trong thời hội nhập. Để biến số đông thành sức mạnh, nông dân cần những “bà đỡ” mát tay ở từng vùng, từng địa phương và trên từng lĩnh vực cụ thể, với qui mô cụ thể. Và để làm tròn vai trò những “bà đỡ”, các tổ chức, doanh nghiệp, đơn vị phải thực sự gần gũi, hiểu sâu sắc tâm lý, tập quán của người dân từng địa phương để có cách “đỡ” phù hợp. Không thể xây dựng một mô hình chung nhất để áp dụng đại trà cho toàn bộ nông dân cả nước.
PHAN TÙNG SƠN (ảnh VNN)