QĐND - Đại Từ là địa phương giàu truyền thống cách mạng, là vùng chiến khu xưa. Điểm "nhấn" về kinh tế của huyện chính là khả năng sản xuất chè-được mệnh danh là "vựa chè" lớn thứ hai cả nước. Để cây chè trở thành sản phẩm kinh tế chủ lực, huyện Đại Từ (Thái Nguyên) đã có nhiều cách làm sáng tạo, từ việc quy hoạch đến xây dựng đề án sản xuất, chế biến và tiêu thụ; tổ chức các lễ hội, đưa yếu tố văn hóa vào thúc đẩy sản xuất và tìm kiếm thị trường.

Đồng chí Trương Mạnh Kiểm, Phó chủ tịch UBND huyện Đại Từ

Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với đồng chí Trương Mạnh Kiểm, Phó chủ tịch UBND huyện Đại Từ để hiểu thêm về vấn đề này. 

Hội chợ chè-Vui chơi, giải trí và kích thích tiêu dùng

Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, nhắc đến Thái Nguyên là nhiều người nghĩ ngay đến... gang thép và chè. Và dĩ nhiên, nhắc đến chè thì phải nhớ đến vùng chuyên canh sản xuất là Đại Từ. Vậy, vị trí của cây chè được địa phương nhìn nhận như thế nào trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức như hiện nay?

Đồng chí Trương Mạnh Kiểm: Đúng là nhắc đến chè Thái Nguyên là nhiều người liên tưởng ngay đến Đại Từ. Có thể nói, cây chè đã thực sự trở thành thế mạnh của huyện, là cây kinh tế mũi nhọn từng gắn bó lâu đời với người dân. Ở vùng núi Bóng, xã Minh Tiến hiện vẫn còn những cây chè cổ và các vườn chè hàng trăm tuổi xen lẫn những vùng chè giống mới hiện đại. Hiện, huyện Đại Từ có diện tích, năng suất chè dẫn đầu tỉnh Thái Nguyên, là vùng chè trọng điểm với diện tích hơn 6000ha, chiếm 1/3 diện tích chè của tỉnh, là huyện có diện tích chè đứng thứ hai cả nước, chỉ sau huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Chính vì thế, từ năm 2010, huyện đã lập “Quy hoạch phát triển cây chè huyện Đại Từ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Chúng tôi cũng đã xây dựng đề án hỗ trợ phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè. Năm 2012 có rất nhiều khó khăn nhưng cây chè đã góp phần quan trọng để huyện đạt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 14,3%, vượt gần 1% so với kế hoạch đề ra.

PV: Xin hỏi thật, thời gian qua đã từng xảy ra “hội chứng” tổ chức lễ hội tràn lan gây lãng phí, vì sao huyện vẫn tổ chức một lễ hội khá quy mô với chủ đề dành riêng cho cây chè?

Đồng chí Trương Mạnh Kiểm: Tôi xin không bình luận về việc "hội chứng" lễ hội hay sự lãng phí nào đó. Tôi luôn thấm thía lời dạy của Bác Hồ, đại ý rằng cái gì mà có lợi cho dân thì nên làm. Năm ngoái, tỉnh Thái Nguyên tổ chức Liên hoan trà quốc tế Thái Nguyên lần đầu tiên đã thu hút hàng trăm doanh nghiệp sản xuất chè cả nước tham gia. Riêng các doanh nghiệp chè của Thái Nguyên cũng đã tìm kiếm được rất nhiều cơ hội kinh doanh mới và bán được rất nhiều sản phẩm. Lần này, Lễ hội trà Đại Từ tổ chức ở cấp huyện nhằm tôn vinh những người làm chè, quảng bá, tìm thị trường cho các đơn vị kinh doanh chè của huyện và tiến tới xây dựng thương hiệu chè Đại Từ. Mặc dù lần đầu tổ chức nhưng đã thu hút được hơn 200 gian hàng, trong đó có 50 gian chuyên về chè của 30/31 xã, thị trấn, số lượng người tới lễ hội ngày một đông, lượng chè tiêu thụ khá lớn, nhiều doanh nghiệp đã tìm được đối tác mới. Không chỉ bán được chè mà nhiều xã, thị trấn còn có dịp quảng bá, bán được các sản phẩm gần với cây chè như: Mật ong, miến dong, bưởi, gạo nếp, rượu… Gọi là “lễ hội” nhưng ngoài ý nghĩa vui chơi, giải trí thì hiệu quả kích thích sản xuất và tiêu dùng rất rõ.

"Lễ hội trà" là sự phát huy của "văn hóa chè"

PV: Đại Từ là huyện có diện tích chè lớn thứ hai cả nước nhưng có lẽ cũng cần rút ra bài học từ nhiều địa phương khác, đó là có những vùng chè từng bị “xé nát” trước xu hướng công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế?

Đồng chí Trương Mạnh Kiểm: Đó là một thực tế mà chúng tôi phải rút kinh nghiệm và tránh những sai lầm đáng tiếc. Thực tế, huyện đã có quy hoạch và chiến lược thống nhất. Cây chè được quan tâm phát triển gắn với những việc làm thiết thực. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây chè đã được quy hoạch diện tích ổn định khoảng 6000ha, sẽ không có chuyện tăng, giảm diện tích nhưng sẽ tăng năng suất, chất lượng bằng thay đổi cơ cấu giống, an toàn vệ sinh. Mặc dù hiện nay trên địa bàn có dự án khai thác khoáng sản ở Núi Pháo rất lớn nhưng không ảnh hưởng tới quy hoạch phát triển cây chè mà có tác dụng hỗ trợ, giúp bà con trong vùng dự án chuyển đổi ngành nghề tốt hơn.

Nghi lễ dâng tế Tổ trà tại Lễ hội trà Đại Từ lần thứ nhất diễn ra tại Thái Nguyên.

PV: Trở lại với câu chuyện Lễ hội trà, liệu đó có phải là sự tiếp nối có chọn lọc của "văn hóa chè", thưa đồng chí?

Đồng chí Trương Mạnh Kiểm: Đúng thế! Mặc dù “văn hóa chè” đã có từ hàng trăm năm, nhưng một lễ hội mang bản sắc riêng về chè để phát huy, nhân rộng văn hóa ấy thì lại chưa có. Cho nên, trong cơ chế thị trường, cũng cần có những lễ hội mới do chính chúng ta tạo ra để khơi nguồn văn hóa dân gian. Tại lễ hội lần đầu, chúng tôi đã chú trọng khơi dậy nhiều nét văn hóa gắn với cây trà như: Lễ tế cây trà, thi sao trà, đêm thưởng trà, cuộc thi “Bàn tay vàng chế biến trà”, nghệ thuật pha trà, mời trà và thưởng trà, lễ cấp sắc của đồng bào dân tộc Dao, múa tắc sình, hát then, đàn tính… Lễ hội trà Đại Từ lần đầu được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng Chạp và mong muốn của chúng tôi là sẽ đưa lễ hội này thành hoạt động thường niên hằng năm, nhằm chuyển đổi nhận thức rất cơ bản của lãnh đạo và bà con nhân dân các dân tộc huyện Đại Từ nhằm phát huy lợi thế nông nghiệp.         

PV: Chè Thái Nguyên vốn rất nổi tiếng, từng đi vào câu thành ngữ dân gian “chè Thái, gái Tuyên”. Nhưng trên thị trường, cũng rất cần có những thương hiệu riêng biệt nằm trong sự nổi tiếng chung?

Đồng chí Trương Mạnh Kiểm: Đó cũng là điều rất được quan tâm ở Thái Nguyên và ở Đại Từ hiện nay. Tại lễ hội lần này, chúng tôi đã trao bằng chứng nhận thương hiệu chè La Bằng, cũng là xã đầu tiên ở Đại Từ có sản phẩm được cấp bằng chứng nhận thương hiệu. Đây là xã có chất lượng chè tốt nhất của huyện, tham gia nhiều hội chợ, hội thi bao giờ cũng đạt giải vàng, chất lượng không thua kém các sản phẩm nổi tiếng khác, xã có 10 xóm thì cả 10 xóm làm chè tốt, làm giàu lên từ cây chè. Chúng tôi chỉ đạo đưa mẫu, mô hình, khuyến cáo bà con, xây dựng mô hình chè sạch, xây dựng thương hiệu và đã thành công. Vừa qua, sản phẩm chè của xã được được Cục Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học và Công nghệ cấp bằng chứng nhận thương hiệu.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng ý thức rằng, xây dựng thương hiệu là một nhiệm vụ nhưng phải thận trọng, không nóng vội vì thương hiệu phải đi kèm chất lượng, chưa đủ điều kiện thì không làm, làm được rồi thì phải giữ được thương hiệu thì khó. Phải bắt nguồn từ sản xuất.

PV: Xin cảm ơn đồng chí!

XUÂN ĐỨC – VĂN MINH (thực hiện)