Trích Báo cáo của Chính phủ do Bộ trưởng Bộ thương mại Trương Đình Tuyển trình bày, về phần: Đánh giá tác động của việc gia nhập WTO.
Về chính trị và an ninh quốc gia
WTO tôn trọng thể chế chính trị và an ninh quốc gia của các Thành viên, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. WTO cũng tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế. Các quy định của WTO không trái với quy định của Hiến pháp nước ta. Việc gia nhập WTO, như đã trình bày, là phù hợp với lợi ích quốc gia và đường lối đối ngoại của ta.
WTO cho phép các Thành viên được duy trì bất kỳ biện pháp nào để bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, việc gia nhập WTO và tuân thủ các quy định của tổ chức này sẽ không gây tác động trực tiếp đến việc thực hiện các yêu cầu có tính sống còn này. Tuy vậy, việc mở cửa thị trường kèm theo việc di chuyển thể nhân, trong chừng mực nhất định đòi hỏi chúng ta phải nâng cao cảnh giác để có thể phát hiện, ngăn chặn những phần tử chống đối lợi dụng thâm nhập vào nước ta. Việc mở cửa dịch vụ nghe nhìn, v..v cũng đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ an ninh thông tin, giữ gìn bản sắc văn hóa và lối sống tốt đẹp của dân tộc.
Tác động của các cam kết đa phương:
Các cam kết đa phương chủ yếu ảnh hưởng tới chính sách kinh tế vĩ mô. Qua phần giải trình, có thể thấy đa số các cam kết này là phù hợp với luật pháp và đường lối đổi mới của ta nên sẽ không gây ra tác động lớn. Tại đây, xin báo cáo thêm như sau:
1- Các cam kết về minh bạch hóa có thể sẽ là thách thức không nhỏ đối với các cơ quan quản lý nhà nước nhưng nếu thực hiện được, sẽ mang lại lợi ích to lớn cho dân và cho các doanh nghiệp, người dân được quyền tham gia góp ý kiến vào việc soạn thảo các văn bản pháp luật, cơ chế chính sách kinh tế, làm cho pháp luật, cơ chế chính sách phản ánh được các yêu cầu thực tiễn. Điều này phù hợp với đường lối của ta.
2- Các cam kết về doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là cùng chiều với chủ trương đổi mới DNNN của ta và vì vậy, sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới, sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả DNNN, tạo ra sân chơi ngày càng bình đẳng hơn cho các thành phần kinh tế.
3- Việc bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới một số doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng dự kiến không lớn. Trước hết, với ngân sách còn hạn chế như hiện nay (và trong nhiều năm tới), tương trợ cấp thực tế là rất khiêm tốn. Thứ đến, bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản có thể tác động đến nông nghiệp nhưng tác động tiếp đến nông dân là không lớn do đối tượng được hưởng trợ cấp xuất khẩu trước đây tuyệt đại đa số là các doanh nghiệp, trợ cấp này có mang lại lợi ích trực tiếp cho nông dân không cũng chưa có điều kiện để khẳng định.
Thêm nữa, hiệu quả của trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa cho tới nay là không rõ ràng. Cuối cùng, để hỗ trợ cho nông nghiệp, ta vẫn có thể sử dụng các biện pháp được WTO cho phép không vượt mức ta cam kết.
Tác động của việc giảm thuế nhập khẩu và mở cửa thị trường dịch vụ
1- Tác động của giám thuế nhập khẩu đối với nông nghiệp và công nghiệp:
Việc giảm thuế nhập khẩu sẽ khiến một số ngành sản xuất của ta phải chịu sự cạnh tranh lớn hơn. Tuy nhiên, cũng cần chú ý tới một số yếu tố sau:
Một là, việc giảm thuế trong khuôn khổ WTO cần được xem xét trong tổng thể của việc giảm thuế cho hàng hóa của các nước ASEAN và Trung Quốc trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc (đã đàm phán xong) và khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN với các nước khác như Nhật Bản, Ấn Độ, Úc - New Zealand, v..v (đang trong quá trình đàm phán). Mức giảm thuế theo cam kết gia nhập WTO là không sâu và rộng như mức giảm thuế mà ta đã cam kết (và trên thực tế đã thực hiện) với các nước ASEAN và Trung Quốc, Hàn Quốc trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do với các nước này.
Hai là, thực tiễn cho thấy việc cắt giảm thuế rộng và sâu trong khuôn khổ ASEAN (một trong số các đối tác nhập khẩu chính của ta) đã không gây ra biến động lớn.
Ba là, kim ngạch nhập khẩu thực tế chịu ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế theo cam kết WTO chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch nhập khấu hàng năm.
Bốn là, do thuế suất của thành phẩm có mức giảm lớn hơn mức giảm của sản phẩm trung gian (nguyên vật liệu và linh kiện đầu vào) vượt ta thu hẹp được mức bảo hộ thực tế trong một số ngành mà hiện nay đang được bảo hộ quá mức cần thiết. Sản xuất, trong đó có sản xuất hàng xuất khẩu, cũng sẽ được hưởng lợi bởi tiếp cận được các yếu tố đầu vào với chi phí rẻ.
Riêng đối với nông nghiệp, áp lực cạnh tranh là lớn do sản xuất nông nghiệp của ta vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất và chất lượng thấp trong khi bình quân đất nông nghiệp theo đầu người quá ít, giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 héc-ta canh tác trung bình ở mức 30 triệu đồng/ha. Để xử lý tình hình này, phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó có cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, từng bước chuyển mạnh phần lớn lao động nông nghiệp sang làm công nghiệp và dịch vụ, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động đi đôi với việc tăng cường đầu tư và hỗ trợ cho nông nghiệp và nông dân bằng những biện pháp phù hợp với quy định của W'I'O (như đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thuỷ lợi, giao thông nông thôn, hỗ trợ nông dân đầu tư các cơ sở bảo quản, phơi sấy; đầu tư cho các loại giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cung cấp cho nông dân với giá ưu đãi, phát triển hệ thống khuyến nông; giảm bớt sự đóng góp của nông dân đi đôi với việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa cho nông dân, v.v... Trong báo cáo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI và trong bài viết đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng ngày 8/11/2006 sau khi Việt Nam được kết nạp vào WTO, Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến chủ trương và các giải pháp này. Tới đây sẽ phải xây dựng thành cơ chế và chính sách cụ thể.
Tóm lại, khi hàng rào bảo hộ bị thu hẹp, sản xuất trong nước sẽ phải đối diện với mức độ cạnh tranh lớn hơn từ bên ngoài. Không loại trừ khả năng sẽ có biến động ở một số ngành, nhất là những ngành mà tính linh hoạt trong chuyển đổi không cao. Dù đây chủ yếu sẽ là biến động cục bộ nhưng vẫn đòi hỏi ta phải khẩn trương rà soát để có biện pháp chủ động đối phó như điều chỉnh cơ cấu sản xuất, đổi mới công nghệ đi đôi với việc hoàn thiện các công cụ về tự vệ được WTO cho phép, hoàn thiện cơ chế thu thập và xử lý thông tin, cơ chế đánh giá cảnh báo định kỳ các tác động để chủ động hơn trong việc ứng phó với các biến động trên thị trường thế giới và trong nước.
2- Tác động của giảm thuế nhập khẩu đối với thu ngân sách:
Việc giảm thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến giảm thu ngân sách từ thuế nhập khẩu nhưng sẽ không có đột biến lớn bởi các lý do. Một là, tổng thu từ thuế nhập khẩu hiện nay chỉ chiếm khoảng 9% tổng thu ngân sách. Hai là, số lượng các mặt hàng giảm thuế chỉ chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm. Việc giảm thuế lại được thực hiện theo lộ trình bình quân là 5 năm nên theo ước tính sơ bộ, thu từ thuế nhập khẩu sẽ chỉ giảm chưa đầy 1% tổng thu ngân sách. Ba là, việc gia nhập WTO với những cơ hội có được, sản xuất - kinh doanh sẽ phát triển, xuất nhập khẩu cũng sẽ tăng lên, những nguồn thu mới sẽ được tạo ra và do đó quy mô của ngân sách sẽ tăng theo sự tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, những thay đổi của thị trường và việc cải cách hệ thống chính sách thuế trong điều kiện hội nhập cũng sẽ làm thay đổi cơ cấu nguồn thu (giữa các địa phương, các khu vực kinh tế, giữa các lĩnh vực hoạt động khác nhau và giữa các sắc thuế khác nhau, v..v.).
3- Tác động của việc mở cửa thị trường dịch vụ:
Cam kết về dịch vụ của ta về cơ bản là tương đương với BTA và phù hợp với hiện trạng trong nước nên sẽ không gây ra tác động quá lớn. Những ngành phải chịu sức ép nhiều nhất sẽ là kinh doanh chứng khoán, ngân hàng, phân phối và hỗ trợ vận tải biển. Tuy nhiên, chúng ta có một thời gian chuyển đổi để chuẩn bị và cũng có một số công cụ để kiểm soát. Nếu có sự chuẩn bị tốt và vận dụng linh hoạt các công cụ mà ta bảo lưu được trong Biểu cam kết dịch vụ, tác động của việc mở cửa thị trường là có thể kiểm soát được.
Chính phủ cũng nhận thức được rằng, việc bảo lưu được một số hạn chế về mở cửa thị trường trong các ngành như bán lẻ và ngân hàng không có nghĩa là sẽ cứng nhắc lạm dụng các hạn chế đó bởi tương tự như khi giảm thuế nhập khẩu, nhiều ngành sản xuất trong nước sẽ được lợi vì có thể tiếp cận nguyên vật liệu đầu vào với chi phí rẻ, việc mở cửa thị trường dịch vụ cũng mang lại lợi ích tương tự, thậm chí lớn hơn, nhất là khi dịch vụ đó là dịch vụ cơ bản, có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế (như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, giao thông vận tải...). Cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ sẽ làm chi phí sản xuất và chi phí giao dịch nói chung giảm, giúp các ngành sản xuất trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều quan trọng là cạnh tranh sẽ tạo ra sức ép và do đó thúc đẩy các doanh nghiệp khắc phục tình trạng trì trệ, đổi mới quản lý để cung cấp các dịch vụ tốt hơn. Theo hướng đó, Chính phủ chủ trương nhìn nhận một cách cân đối về thách thức và tác động của việc mở cửa thị trường trong cả lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ để không lạm dụng hạn chế bảo lưu được trong một số ngành để tránh tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới và nâng cao sức cạnh tranh trong các ngành đó.
Về xuất nhập khẩu hàng hóa
Thị trường xuất khẩu được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng nhưng dự kiến sẽ không có đột phá lớn trong ngắn hạn, vì những lý do sau đây:
Một là, khác với các cuộc đàm phán song phương khác, đàm phán gia nhập WTO không dẫn đến việc các Thành viên WTO giảm thuế riêng cho ta, ta chỉ được hưởng mức thuế mà các Thành viên này đã hoặc sẽ cắt giảm theo lộ trình của họ.
Hai là, ta sẽ được tiếp cận thị trường của 149 Thành viên WTO khác trên cơ sở đối xử tối huệ quốc (MFN) nhưng trên thực tế, trừ dệt may và một số mặt hàng mà các Thành viên WTO áp dụng hạn ngạch và chỉ phân bổ hạn ngạch cho các Thành viên WTO, với tất cả các bạn hàng quan trọng nhất, ta đều đã được hưởng đối xử MFN nên việc có được MFN trên cả 149 thị trường sẽ không mang lại đột phá lớn.
Ba là, dù điều kiện bên ngoài thuận lợi, xuất khẩu vẫn không thể “tăng vọt" nếu không có đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và khắc phục những hạn chế mang tính cơ cấu. Gia nhập WTO là gửi ra bên ngoài một tín hiệu mạnh về quyết tâm đổi mới của ta. Đầu tư trong nước và nước ngoài nhiều khả năng sẽ tăng lên và tăng nhanh, qua đó tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới. Đây là cơ hội rõ nhất mà việc gia nhập WTO tạo ra và được nhiều tổ chức quốc tế cũng như giới doanh nghiệp thừa nhận. Tuy nhiên, hiệu quả sẽ đến sau một thời gian chứ chưa thể thấy rõ ngay trong một, hai năm đầu sau khi ta vào WTO.
Ngành có lợi rõ rệt nhất sẽ là ngành dệt may bởi hạn ngạch sẽ được xoá bỏ với ở thị trường hiện còn áp dụng hạn ngạch. Tuy nhiên, do dệt may là vấn để nhạy cảm nên không loại trừ khả năng các nhà sản xuất ở các thị trường đó sẽ tìm mọi cách tạo cớ chống "bán phá giá", chống "trợ cấp" để bảo hộ ngành dệt may của họ. Do đó, ta phải đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của ta; Ngoài ra, ngành dệt may của ta sẽ phải đối diện với sự cạnh tranh gay gắt với các nước có ngành dệt may phát triển trên các thị trường lớn, đặc biệt là sau năm 2008. Do vậy, dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sẽ tăng nhưng không tăng đột biến và để ngày càng phát triển, các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may phải nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh.
Gia nhập WTO cũng không mang lại kết quả là các Thành viên WTO sẽ giảm "rào cản kỹ thuật" cho hàng hóa xuất khẩu của ta. Những hàng rào được WTO không cấm sẽ vẫn tồn tại. Các vụ kiện chống bán phá giá sẽ vẫn xảy ra. Tuy nhiên, có điểm khác là từ nay, ta sẽ có khả năng kiện ra WTO nếu như có cơ sở để cho rằng biện pháp nào đó áp dụng cho hàng hóa xuất khẩu của ta là vi phạm quy định của WTO.
Tóm lại, xuất nhập khẩu sẽ chịu tác động của việc gia nhập WTO nhưng những tác động đó sẽ là tác động tích cực và nhiều khả năng sẽ bộc lộ rõ hơn trong trung hạn (sau từ 3 đến 5 năm).
Về tác động xã hội
Như trên đã trình bày, cạnh tranh gay gắt có thể làm cho một số doanh nghiệp trước hết là các doanh nghiệp vẫn dựa dẫm vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu rơi vào cảnh khó khăn thậm chí phá sản, kéo theo đó là tình trạng thất nghiệp trong một bộ phận lao động sẽ xảy ra. Tuy nhiên, dự kiến tác động này là có tính cục bộ và không quá lớn và chỉ mang tính ngắn hạn. Để đối phó với tình hình này, Ngân sách cần có các khoản dự phòng để chủ động xử lý kịp thời các tác động tiêu cực có thể xảy ra trong đó có việc tổ chức đào tạo lại đội ngũ, lao động. Với thời gian, thu hút đầu tư nước ngoài tăng lên, cơ cấu sản xuất sẽ được điều chỉnh và nhiều việc làm mới sẽ được tạo ra.
* Đầu đề của Báo QĐND