“Một người bạn hỏi: hình ảnh Việt Nam trên bản đồ thế giới là gì? Tôi nói: giống một anh nông dân đội nón, gánh trên vai sức nặng cả lục địa. Nay là thời của toàn cầu hóa, anh nông dân đó muốn thoát sức nặng và bật lên thì anh phải hướng ra biển. Phải là người bình thường giữa thiên hạ, rồi mới mong bật lên giữa thiên hạ. Hội nhập thực chất là sự được chấp nhận là người bình thường” - đó là cách nhìn của nhà sử học Dương Trung Quốc...
* Vậy trước đây chúng ta đã “không bình thường”. Vì sao, thưa ông?
- Nhà sử học Dương Trung Quốc: Chúng ta bị phân biệt và hạn chế nhiều mặt về quyền lợi thương mại. Hậu quả là bị đặt bên lề quĩ đạo phát triển toàn cầu. Nguyên nhân tiềm ẩn từ đặc thù của dân tộc và địa lý. Trước hết, đất nước ta vì vị trí địa lý, suốt chiều dài lịch sử luôn phải thế thủ với những cường quốc khác. Sự không tương xứng sức mạnh khiến lúc nào ta cũng cần “kín cổng cao tường”.
Mặt khác, tư tưởng bình quân chủ nghĩa, quan điểm lấy của người giàu chia cho người nghèo và gần như chưa bao giờ thừa nhận tính hữu sản trong cộng đồng... bao trùm tâm lý người Việt. Điều đó khiến chúng ta chưa bao giờ có tầng lớp quí tộc, thương gia hay tư sản. Khi không có tầng lớp người giàu nhờ kinh doanh, giỏi về kinh doanh và khát vọng về kinh doanh thì chúng ta cũng không có cơ sở để mở cửa, hội nhập giao thương với nước ngoài, tức là làm ăn kinh doanh lớn.
 |
Nhà sử học Dương Trung Quốc. |
* Xét về lịch sử, ý nghĩa quan trọng nhất của công cuộc hội nhập lần này là gì, thưa ông?
- Anh nông dân muốn thoát khỏi sức nặng của quang gánh trên vai phải nhìn ra biển, lấy sức mạnh từ biển thì cái lò xo kìm nén hàng ngàn năm mới có thể được giải phóng. Từ nay, ta không còn trong tư thế thủ, kín cổng cao tường mà đã là người của số đông.
Quốc gia cũng như mỗi công dân Việt Nam đều có đầy đủ mọi cơ hội để lớn mạnh, tự tin như bất cứ quốc gia và công dân nào trên thế giới. Bởi vì từ nay ta đã được công nhận là “người bình thường” trong thế giới chung. Ta có quyền được hưởng thụ, được tự hào với những nguồn lợi và thành quả của thế giới chứ không phải chỉ biết hưởng thụ và tự hào với những thứ của riêng ta.
Vấn đề làm thế nào để trở thành người lớn mạnh, làm thế nào để có thể được hưởng thụ, được tự hào thì là những câu chuyện sau đó. Nhưng trước hết ta phải biết làm một “người bình thường” thật tốt và phát huy những sở trường, thế mạnh của mình trong luật chơi chung.
* Ông cho rằng người Việt có tố chất hội nhập hay không?
- Lịch sử đã chứng minh người Việt có khả năng hội nhập rất khôn khéo, tài ba và hiệu quả. Không những không đánh mất bản sắc dân tộc mà người Việt còn biến sức mạnh của người khác thành của mình. Điển hình là sử dụng chữ viết Trung Quốc nhưng không đánh mất tiếng nói, ngôn ngữ bản địa và còn Việt hóa chúng.
Đến thời Pháp thuộc, tuy ta mất về chính trị nhưng một bộ phận trí thức cũng nhận thấy đây là cơ hội tiếp cận, tiếp thu nền văn hóa lớn của thế giới. Đến thời điểm dân tộc hoàn toàn độc lập, một lãnh tụ người Việt là Hồ Chí Minh mới có thể thể hiện rõ ràng tư tưởng mở cửa hội nhập của dân tộc ta với tư thế khác: độc lập bình đẳng, đàng hoàng. Đó là: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ trên thế giới và không muốn thù oán với ai.
* Thưa ông, điều này có mâu thuẫn với đặc thù vị trí lãnh thổ và tâm lý người Việt với nền văn minh lúa nước?
- Tôi cho rằng không. Anh nông dân đầu đội nón, lưng còng gánh nặng ấy đồng thời có nhiều tố chất. Mỗi một thời điểm, hoàn cảnh thì anh ta phát huy một tố chất phù hợp. Trước khi muốn là người bình thường anh phải tìm cách để tồn tại đã. Trong suốt chiều dài lịch sử chúng ta phải lo chiến đấu để sinh tồn. Không ngừng đối mặt với chiến tranh xâm lược nên người Việt buộc phải co cụm, dính kết thành sức mạnh tập trung. Và yếu tố này đã trói buộc quyền hữu sản - một cơ sở quan trọng để hội nhập thương mại, trong xã hội ta.
Mặt khác, là một nước nhỏ, chúng ta cũng phụ thuộc hoàn cảnh của thế giới. Nay xu hướng của nhân loại là toàn cầu hóa, hợp tác cùng phát triển, hòa bình và thịnh vượng. Thêm nữa, sự đòi hỏi dân chủ hóa, xây dựng xã hội pháp quyền rất mạnh mẽ, cộng thêm cuộc bùng nổ thông tin... đã là những điều kiện tốt đẹp, thuận lợi nhất cho Việt Nam hội nhập. Lúc này thì tố chất hội nhập tiềm ẩn được thức dậy trong anh nông dân thay cho tâm lý co cụm, thủ thế cũ.
* Chúng ta đã làm gì để đón nhận cơ hội này?
- Tôi cho rằng từ trong khả năng tiềm tàng, từ những phản xạ vô thức của mỗi người dân đến những chủ trương hoạch định chiến lược của giới lãnh đạo đã có sự đón nhận cơ hội này. Tuy có nhanh chậm, mạnh mẽ, thận trọng khác nhau nhưng chúng ta đã chờ đón và tiệm cận cơ hội này từ 20 năm trước bằng sự khởi phát đầy bản lĩnh của công cuộc đổi mới.
Đến nay ngoài thành quả là những con số kinh tế thì xã hội đã thừa nhận quyền hữu sản, tức là con người được sống với quyền có tài sản riêng mình. Các khế ước xã hội có xu hướng ngày một hoàn thiện và hệ quả là tính dân chủ cũng dần được nâng cao. Thế giới thừa nhận điều đó và đã thừa nhận chúng ta là “người bình thường” trong toàn cầu.
* Theo ông, những tố chất “không bình thường” của VN khi hội nhập có còn không?
- Những tố chất tạm gọi “không bình thường” đó là đặc thù của Việt Nam so với đại thể thế giới khi xét về những yếu tố liên quan đến hội nhập. Đặc thù đó đương nhiên còn nhiều và có những thứ khiến ta mạnh và có thứ khiến ta yếu khi tham gia với luật chơi, với hoàn cảnh mới. Theo tôi, điểm yếu nhất là hệ thống và tập quán pháp luật.
Đã lâu chúng ta chưa thật sự quan tâm xây dựng một xã hội pháp quyền khiến hiệu quả của hệ thống luật pháp của ta chưa cao. Xã hội chưa ý thức đầy đủ tầm quan trọng của luật pháp trong một xã hội hiện đại. Ngược lại, các quốc gia phát triển trong cộng đồng hội nhập luôn thượng tôn pháp luật. Ngay cả luật chơi chung tại các tổ chức kinh tế quốc tế cũng là những chuẩn mực chặt chẽ chi phối toàn bộ cuộc chơi.
Đáng ngại là người Việt quen phản ứng với chiến tranh, với thời tiết trong canh nông nên ỷ vào năng lực thích ứng hoàn cảnh, giỏi trong tư duy tình huống. Đặc tính “nước đến chân mới nhảy” vì vậy cũng là điểm yếu của người Việt khi cuộc chơi mới luôn chặt chẽ, minh bạch, sòng phẳng, luôn đòi hỏi tính chiến lược và tính toán khoa học. Tính cách đó ta đã phải trả giá ngay từ khi mới chập chững trước cửa hội nhập. Đó là những vụ kiện thương mại.
* Vậy những yếu tố nào được xem là thế mạnh của Việt Nam khi hội nhập?
- Tôi chỉ xét từ góc độ lịch sử và thấy rằng bản lĩnh biết chắt lọc, thụ hưởng những ích lợi từ cuộc chơi chung nhưng cũng biết bảo vệ và phát huy phẩm chất, giá trị riêng mình là ưu điểm của người Việt. Điều đó đã thể hiện qua những lần hội nhập lớn trong lịch sử, dù là hội nhập cưỡng ép như đã nói trên. Ngày nay khi vươn ra biển lớn, chúng ta cũng buộc phải có trang phục của người đi biển như tất cả mọi người đang có mặt ở đây để làm sao thuận lợi nhất cho bơi lội, đánh bắt, làm ăn...
Thế nhưng ta vẫn muốn giữ bản sắc của mình mà không bị phạm luật. Nếu được như vậy thì thành quả từ hội nhập đã nhân hai lần ý nghĩa. Một trong những điều rõ nhất là: Việt Nam hội nhập, đứng vào xu thế toàn cầu hóa với cơ sở là kinh tế thị trường nhưng vẫn giữ định hướng chính trị của mình.
* Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ra đời từ lâu, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã vào cuộc, ông thấy gì trong việc xếp thứ 150 về thứ tự gia nhập của Việt Nam?
- Thật ra về tư tưởng, thậm chí chiến lược hội nhập với tư cách bình đẳng, tự nguyện của người Việt với thế giới đã có từ hàng trăm năm trước với Nguyễn Trường Tộ, Phan Chu Trinh và cả một số thời điểm sau nữa. Thế nhưng những lần “lỡ hẹn” đó, theo tôi, là vì điều kiện, hoàn cảnh trong và ngoài nước chưa thuận lợi. Nay khi điều kiện chín muồi, chúng ta đã không “lỡ hẹn”. Việc Việt Nam xếp thứ 150 khi đến với WTO nếu đặt trong các quốc gia chung hoàn cảnh thì ta cũng không đến nỗi chậm chân lắm.
Theo TTO