QĐND - LTS: Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 2-1 đã đăng toàn văn dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Chỉ thị của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đóng góp vào dự thảo văn kiện chính trị-pháp lý đặc biệt quan trọng này. Để giúp bạn đọc của Báo Quân đội nhân dân có thể hiểu thêm những nội dung sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Hiến pháp mới, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Luật gia Thịnh Phúc phân tích về một số điểm mới đáng chú ý trong dự thảo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013).

I - Sửa đổi toàn diện

Trước hết, có thể khẳng định, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có sự kế thừa những giá trị khoa học về nội dung và kỹ thuật lập hiến trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng đã thể chế hóa kịp thời Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Bên cạnh đó, trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 còn có sự kế thừa những thành tựu, kinh nghiệm xây dựng Hiến pháp của các nước trên thế giới, làm rõ mối quan hệ giữa Hiến pháp với các cam kết và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là trong trường hợp các điều ước quốc tế trái với quy định của Hiến pháp Việt Nam.

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vừa công bố có Lời nói đầu, 11 Chương, 124 Điều. So với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) giảm một Chương, 23 Điều. Trong số 11 Chương của dự thảo Hiến pháp mới có một Chương mới hoàn toàn (Chương X: HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP, HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA, KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC). Trong số 124 Điều của dự thảo Hiến pháp mới có tới 11 Điều viết hoàn toàn mới, 102 Điều sửa đổi bổ sung. Điều này cho thấy việc sửa đổi Hiến pháp lần này khá toàn diện.

II - Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bước đầu thiết lập cơ sở cho quá trình đổi mới và cải cách bộ máy nhà nước phù hợp với tiến trình đổi mới của nhà nước ta. Tuy nhiên, nội hàm về nhà nước pháp quyền vẫn chưa được thể hiện cụ thể và xuyên suốt trong Hiến pháp năm 1992, nhất là các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước. Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định nguyên tắc chung về phân công, phối hợp mà chưa xác định rõ các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp nên chưa phân định đầy đủ, đúng đắn, minh bạch về thẩm quyền của mỗi cơ quan. Chính vì vậy, việc kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong Hiến pháp năm 1992 cũng chưa được xác định rõ. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp mặc dù được giao cho nhiều cơ quan khác nhau nhưng chưa thật sự cụ thể, hiệu lực, hiệu quả bảo vệ Hiến pháp chưa cao. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo Hiến pháp và trên thực tiễn thi hành phát sinh một số bất cập, chưa phù hợp với xu thế quản trị quốc gia hiện đại trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã khắc phục được những hạn chế trên.

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này đã có những điều, khoản khẳng định Quốc hội là cơ quan lập pháp; Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại; Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan cũng đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, bảo đảm để Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Quy định cụ thể hơn thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước trong hoạt động lập pháp, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch hội đồng Quốc phòng và An ninh… Tạo cơ sở pháp lý để Chính phủ chủ động hơn trong việc đề xuất và tổ chức thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên. Sửa đổi các quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp.

III - Thành lập Hội đồng Hiến pháp

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có thêm một điều (Điều 120) quy định về Hội đồng Hiến pháp với chức năng là bảo vệ Hiến pháp. Theo Điều 120 của dự thảo thì Hội đồng Hiến pháp là cơ quan do Quốc hội thành lập, gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các Ủy viên. Đây là vấn đề rất mới đối với Việt Nam đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bởi lẽ trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, các hành vi vi hiến đều có thể xảy ra. Trong hoạt động lập pháp, các hành vi vi hiến có thể xảy ra là: Ban hành văn bản không đúng thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định; không ban hành văn bản để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện và bảo vệ các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; ban hành luật chứa những quy định trái với quy định cụ thể của Hiến pháp hoặc không phù hợp với tinh thần của Hiến pháp. Hiến pháp năm 1992 giao cho Quốc hội thẩm quyền ban hành, sửa đổi Hiến pháp và các đạo luật, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, cả Hiến pháp và pháp luật đều không quy định trách nhiệm phát sinh từ các đạo luật vi hiến mà Quốc hội đã ban hành hoặc có sai sót trong quá trình biểu quyết thông qua. Đây là sự chưa rõ ràng giữa quyền lực của Quốc hội với quyền lực của Hiến pháp.

Trong hành pháp, không tuân thủ Hiến pháp được biểu hiện dưới hai hình thức chủ yếu là ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật có nội dung trái với Hiến pháp; lãnh đạo cơ quan hành pháp chỉ đạo, điều hành không đúng nguyên tắc Hiến pháp, không đúng chức năng, thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định. Trong hoạt động tư pháp, vi phạm Hiến pháp thường thấy qua các biểu hiện vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.

Chính vì thế việc thành lập Hội đồng Hiến pháp là cần thiết. Theo quy định của Điều 120 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành; kiến nghị Quốc hội xem xét lại văn bản quy phạm pháp luật của mình khi phát hiện có vi phạm Hiến pháp; yêu cầu Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật của mình hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ văn bản vi phạm Hiến pháp; kiểm tra tính hợp hiến của điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước trước khi trình Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn.

 IV – Bảo đảm nguyên tắc: Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân

Một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN đó là, quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân” nhưng Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện đầy đủ và nhất quán tư tưởng chủ quyền của nhân dân, mà nội dung cốt lõi là nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện như trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh. Để khắc phục hạn chế trên, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện xuyên suốt tư tưởng chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo của nhân dân.

Các đại biểu Quốc hội ấn nút thông qua Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ảnh:  Nhan Sáng

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận và làm sâu sắc hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, bao gồm cả quyền lập hiến bằng việc đóng góp ý kiến trực tiếp vào bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp trước khi Quốc hội thông qua; nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội do họ bầu ra, đồng thời có quyền biểu quyết về những vấn đề trưng cầu ý dân.

Điều 2 và Điều 3 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

Dự thảo Hiến pháp mới cũng đã bổ sung thêm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân như: Quyền được có quốc tịch; quyền được bảo đảm an sinh xã hội; quyền được thụ hưởng giá trị văn hóa; được bảo vệ trong tiêu dùng…

V- Làm rõ hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc 

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, bên cạnh việc thể chế hóa tư duy đổi mới của Đảng về quốc phòng-an ninh trong Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã làm rõ hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Dự thảo tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng đã hiến định hóa nguyên tắc lực lượng vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân nói riêng và sự nghiệp quốc phòng-an ninh nói chung.

Điều 48 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được xây dựng trên cơ sở Điều 77 của Hiến pháp năm 1992 “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân”, ngoài ra đã bổ sung thêm “việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định”. Đây là vấn đề mới được ban soạn thảo bổ sung xuất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm của các nước trong việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự. 

Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định: “Công dân Liên bang Nga trong trường hợp vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo mà không thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc trong những trường hợp do luật quy định thì có quyền thay bằng hình thức phục vụ dân sự”.

Ở một số quốc gia khác cũng có những quy định về công dân thực hiện phục vụ dân sự thay thế nghĩa vụ quân sự. Những người này được hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách phù hợp với tính chất, công việc mà mình đảm nhiệm theo quy định của pháp luật.

Ở nước ta, cũng đã có những quy định trong các Luật, Nghị định về việc tạm hoãn, miễn gọi công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, do điều kiện số công dân nhập ngũ hằng năm ở nước ta chỉ chiếm khoảng 0,12% tổng dân số và 5,87% tổng số công dân nam trong độ tuổi từ 18 đến 25 tuổi, vì vậy rất cần có cơ sở pháp lý cho việc phục vụ dân sự thay thế thực hiện nghĩa vụ quân sự để bảo đảm công bằng xã hội.

Điều 69 của dự thảo bổ sung Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung Điều 44 của Hiến pháp năm 1992) khẳng định “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. 

Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định”.

VI - Bổ sung thêm địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước

Trải qua 18 năm đi vào hoạt động, Kiểm toán Nhà nước đã khẳng định được vai trò là công cụ quản lý tài chính Nhà nước hữu hiệu, nâng cao hiệu quả quản lý nguồn lực tài chính quốc gia, tăng cường tính minh bạch và công khai nền tài chính đất nước. Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005 với nhiều nội dung; trong đó có quy định nguyên tắc hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; trung thực, khách quan”. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực, kinh tế thế giới và thực tiễn hoạt động Kiểm toán Nhà nước, quy định khuôn khổ pháp lý như hiện nay cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước vẫn còn tồn tại một số bất cập, cụ thể: Địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước và Tổng Kiểm toán Nhà nước chưa được quy định trong Hiến pháp theo khuyến cáo của Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) và thông lệ quốc tế. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự hạn chế hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm toán trong những năm qua.

Vì những lý do trên đây, dự thảo sửa đổi Hiến pháp mới đã bổ sung thêm địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước (Điều 122) “1. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. 2. Tổng Kiểm toán Nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước do luật định. Tổng Kiểm toán Nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội. 3. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Kiểm toán Nhà nước do luật định”.

VII- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Việc thừa nhận và đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường trong Hiến pháp năm 1992 đã tạo điều kiện cho nước ta thoát khỏi khủng hoảng, phát triển mạnh mẽ và chủ động hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trước những bất cập của Hiến pháp năm 1992 về chế định kinh tế, việc sửa đổi Hiến pháp lần này, bên cạnh việc tiếp tục khẳng định và làm rõ vai trò “định hướng xã hội chủ nghĩa” đối với nền kinh tế, đã khẳng định: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” (Điều 54 của dự thảo Hiến pháp mới). Điều 55 của dự thảo Hiến pháp mới nêu rõ nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước “1. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường; thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp, thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm phát triển hợp lý, hài hòa giữa các vùng, địa phương và tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân. 2. Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức hợp tác kinh tế với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và cùng có lợi, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế”.

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng đã nêu rõ việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách cụ thể chứ không can thiệp sâu vào nền kinh tế… Tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định. 

Hiến pháp là sự kết tinh trí tuệ của toàn dân tộc, vì vậy, mặc dù đã được chuẩn bị công phu, nhưng, dự thảo sửa đổi Hiến pháp vẫn cần có sự đóng góp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Luật gia THỊNH PHÚC