Học viên học nghề tại Trường cao đẳng nghề kỹ thuật Công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc để đi xuất khẩu lao động. Ảnh: TTXVN

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới nhiều hoạt động trong nước, trong đó có xuất khẩu lao động. Đã có không ít lao động ngoài nước bị trả về trước thời hạn. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân vừa có cuộc trao đổi với đồng chí Nguyễn Ngọc Quỳnh, Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội) về tình trạng xuất khẩu lao động hiện nay.

Bức tranh xuất khẩu lao động chưa quá ảm đạm

- Từ góc độ cơ quan đầu mối về quản lý Nhà nước, đồng chí có thể đánh giá khái quát tình hình xuất khẩu lao động của nước ta hiện nay như thế nào?

- Rõ ràng trong vài năm qua, với nhiều thay đổi trong chủ trương và phương thức xuất khẩu lao động, số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài hằng năm đều tăng lên. Năm 2006, ta đưa được 78.000 lao động, năm 2007 được 85.000 người và năm 2008, mặc dù khủng hoảng kinh tế nhưng vẫn đưa được gần 87.000 người đi làm việc ở nước ngoài, vượt chỉ tiêu kế hoạch năm (85.000 người). Hiện nay có khoảng 500.000 lao động Việt Nam đang làm việc ở hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ với 30 nhóm ngành nghề khác nhau, mỗi năm gửi về nước từ 1,6 đến 2 tỉ USD. Thu nhập bình quân của người lao động ngoài nước cũng cao hơn trong nước trung bình từ 5 đến 7 lần. Ví dụ như ở Hàn Quốc thu nhập trung bình là hơn 12 triệu đồng/người/tháng; Trung Đông là 7-10 triệu đồng/người/tháng… Một số địa phương đã đưa được nhiều lao động đi là Nghệ An hơn 30.000 người, Thanh Hóa 25.000 người, Hà Tĩnh gần 20.000 người…

Những kết quả trên có được là do chúng ta đã có hệ thống pháp luật phù hợp, Nhà nước đã có những chính sách và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động có hiệu quả, nguồn lao động Việt Nam đã được đánh giá tốt trên thị trường lao động quốc tế và nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã hoạt động năng động.

- Những diễn biến xấu của tình hình kinh tế thế giới đã ảnh hưởng thế nào tới hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta?

- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng xấu đến nhiều nền kinh tế của các nước nhận lao động Việt Nam. Các doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài gặp khó khăn trong sản xuất-kinh doanh, thiếu việc làm cho người lao động, nhiều doanh nghiệp bị phá sản. Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế thì năm 2009 toàn thế giới sẽ có khoảng hơn 30 triệu người mất việc làm do khủng hoảng. Chính vì vậy thời gian qua, nhiều lao động làm việc ở nước ngoài gặp khó khăn, chủ yếu là bị giảm giờ làm thêm, nhiều lao động không đủ việc làm trong giờ làm việc bình thường, dẫn đến giảm thu nhập, thậm chí đã có khoảng 2.000 lao động Việt Nam phải về nước trước thời hạn, chủ yếu là lao động tại Đài Loan (Trung Quốc)… Nhu cầu nhận lao động mới cũng giảm đi rõ rệt.

Tuy nhiên, cần nhận thấy bức tranh xuất khẩu lao động của chúng ta chưa đến mức ảm đạm và còn nhiều gam màu sáng khác.

Cố gắng hạn chế số lượng người lao động phải về nước trước hạn

- Người lao động ở nước ngoài gặp khó khăn như vậy, chúng ta đã có giải pháp gì để giúp đỡ họ?

- Trước tình hình lao động ta ở nước ngoài gặp khó khăn trong việc làm, thu nhập, có nguy cơ phải về nước trước thời hạn, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo các doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải theo dõi thường xuyên tình hình việc làm, thu nhập của người lao động và thực hiện mọi giải pháp để bảo vệ quyền lợi của họ. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn và chuẩn bị cắt giảm lao động, chúng ta phải tìm mọi biện pháp chuyển người lao động sang nơi làm việc mới. Trường hợp không chuyển được mà phải đưa về nước thì phải làm việc với người sử dụng lao động để thực hiện đủ các chế độ đối với người lao động về nước trước thời hạn hợp đồng theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận. Cục Quản lý lao động ngoài nước đã có văn bản hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp về việc này. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đã thảo luận với Bộ Ngoại giao để chỉ đạo các cơ quan đại diện ở nước ngoài tác động với các cơ quan chính quyền sở tại chỉ đạo thực hiện các giải pháp đó.

Khi người lao động về nước, các doanh nghiệp phải tiến hành thanh lý hợp đồng với người lao động theo đúng quy định của pháp luật. Pháp luật về xuất khẩu lao động của ta đã quy định rất rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong trường hợp này. Ngoài ra, Quyết định 30 của Chính phủ vừa ban hành về hỗ trợ người lao động mất việc do doanh nghiệp bị ảnh hưởng của suy giảm kinh tế, cũng có phần hỗ trợ cho vay vốn tạo việc làm hoặc học nghề đối với người lao động ở nước ngoài mất việc trở về.

Tiếp tục tìm kiếm, mở rộng thị trường

- Được biết, năm 2009, Quốc hội giao chỉ tiêu đưa 90.000 lao động ra nước ngoài, theo đồng chí liệu chúng ta có thể hoàn thành được không?

- Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay, chỉ tiêu năm 2009 đưa 90.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài thực sự là một thách thức. Tuy nhiên chúng tôi thấy rằng trong khó khăn vẫn còn có những cơ hội. Vấn đề là chúng ta phải thấy được các cơ hội đó và đề ra các giải pháp để tận dụng được cơ hội. Ví dụ, tại thị trường các nước Trung Đông hiện nay vẫn có nhu cầu rất lớn về lao động tay nghề cao làm việc trong các nhà máy sản xuất thiết bị dầu khí, lao động dịch vụ khách sạn, thương mại, phục vụ văn phòng... Nếu chúng ta chuẩn bị tốt nguồn lao động trong các nghề này thì có thể đưa được số lượng lớn lao động sang đây. Các thị trường khác cũng còn có những cơ hội tương tự. Chúng tôi đang chuẩn bị một phương án đưa lao động sang từng thị trường cụ thể trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế để triển khai thực hiện.

- Chúng ta đang có những ưu thế và cơ hội như thế nào?

- Trong xuất khẩu lao động, bên cạnh một số hạn chế, ta cũng có nhiều thuận lợi. Chúng ta có nguồn lao động dồi dào, tuổi bình quân rất trẻ; lao động Việt Nam cũng đã có uy tín trên thị trường lao động quốc tế. Chúng ta đã có một hành lang pháp luật đầy đủ, tương đối phù hợp với pháp luật các nước nhận lao động. Ta cũng đã xây dựng được một hệ thống thị trường xuất khẩu lao động rộng và ổn định, trong đó có những thị trường nhận số lượng rất lớn lao động Việt Nam như Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) và một số nước khu vực Trung Đông... Người sử dụng lao động tại một số nước đánh giá rất cao và thích nhận lao động của Việt Nam. Ta đã ký nhiều thỏa thuận với các nước về tiếp nhận lao động, tạo được khung pháp lý để hợp tác đưa lao động đi và bảo vệ quyền lợi của người lao động.

- Chúng ta sẽ cần tập trung vào những giải pháp chính nào để đẩy mạnh xuất khẩu lao động trong năm nay?

- Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, một mặt chúng ta phải tập trung thực hiện các giải pháp bảo vệ quyền lợi cho người lao động đang làm việc ở nước ngoài, mặt khác phải tìm các giải pháp để mở rộng thị trường. Đối với các thị trường hiện có, chúng ta tìm các cơ hội để tiếp tục đưa lao động đi, đồng thời tiếp tục mở thêm các thị trường mới. Để đưa được nhiều lao động mới đi, phải coi trọng công tác chuẩn bị nguồn lao động xuất khẩu, trong đó có vấn đề dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động, đưa ra các chính sách mới hỗ trợ người lao động có đủ điều kiện tham gia xuất khẩu lao động. Đặc biệt là hiện nay, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã xây dựng, xin ý kiến các bộ, ngành để trình Chính phủ một đề án hỗ trợ 61 huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2015. Dự kiến sẽ có những chính sách rất đặc thù hỗ trợ người lao động thuộc các huyện nghèo học văn hóa, học nghề và có đủ điều kiện về tài chính để đi làm việc ở nước ngoài. Thêm vào đó Chính phủ cũng mới đồng ý để Bộ dự thảo một đề án dạy nghề cho một triệu nông dân mỗi năm. Với nhiều biện pháp đồng bộ như vậy, tôi tin tưởng các chương trình xuất khẩu lao động sẽ tiếp tục được thực hiện hiệu quả trong thời gian tới.

- Xin cảm ơn đồng chí!

Hoàng Trường Giang (thực hiện)