QĐND Online - Sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây cùng với dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài là những yếu tố quan trọng đã tạo nên làn sóng đơn đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN), trong đó có đơn sáng chế tại Việt Nam. Không những số lượng đơn đăng ký sáng chế đến từ người nộp đơn nước ngoài thông qua lộ trình Hiệp ước hợp tác về sáng chế (PCT) mà cả số đơn trong nước nộp trực tiếp tại Việt Nam cũng đang tăng lên. Mặc dù hệ thống sở hữu trí tuệ (SHTT) của chúng ta đã có những cải tiến rất đáng kể nhưng việc nộp và theo đuổi đơn sáng chế tại Việt Nam vẫn không tránh khỏi một số khó khăn, trở ngại.

Ông Dương Tử Giang- Văn phòng Luật sư Phạm và Liên danh bộc bạch, cần nhận thấy rằng tuy hệ thống luật SHTT Việt Nam hiện nay là tương đối hoàn chỉnh và gần như hoàn toàn phù hợp với các thông lệ quốc tế nhưng vẫn tồn tại nhiều kẽ hở, thiếu sót, nhiều chỗ chưa rõ ràng, minh bạch. Có thể liệt kê ra một vài ví dụ cụ thể. Chẳng hạn, trong tất cả các văn bản pháp qui không có một điều khoản nào qui định về thời hạn nộp bản sao đơn ưu tiên hoặc thiếu hẳn qui định rằng thời điểm bắt đầu bảo hộ tạm thời là ngày công bố đơn tại Việt Nam (kể cả đơn quốc gia lẫn đơn quốc tế), những thiếu sót như vậy có thể dẫn đến việc hiểu và áp dụng sai các qui định của pháp luật. Một số điều khoản của các văn bản luật lại thiếu rõ ràng làm cho việc áp dụng chúng thiếu nhất quán. Sự thiếu nhất quán trong vận dụng các điều khoản pháp luật này lại càng dễ xảy ra hơn khi quá trình xử lý đơn không được công khai cho công chúng giám sát. Những khiếm khuyết của hệ thống luật SHTT như vậy đã và đang gây khó khăn cho quá trình nộp và xử lý đơn sáng chế.

Tất nhiên, các qui phạm pháp luật không thể luôn luôn theo kịp các đòi hỏi của cuộc sống thực tế vốn phát triển không ngừng. Cũng như không thể liệt kê trong luật tất cả các tình huống thực tế có thể xảy ra. Hơn nữa, việc sửa đổi, bổ sung văn bản luật không thể được thực hiện hằng ngày, hằng tháng. Tuy nhiên, có thể định kỳ tổ chức các cuộc gặp mặt giữa các cán bộ của Cục SHTT và các đại diện SHCN để cùng trao đổi, giải quyết các vướng mắc của các tổ chức đại diện. Cục SHTT cũng có thể tập hợp các trường hợp điển hình trong quá trình xử lý đơn và xuất bản dưới dạng tài liệu tham khảo để những người quan tâm có thể tìm hiểu. Ngoài ra, để bảo đảm việc vận dụng pháp luật được công bằng và nhất quán, dựa trên kinh nghiệm của nước ngoài, các hồ sơ xử lý đơn cũng nên được công khai hóa cho công chúng giám sát.

Đây là một chiếc máy đa năng có thể tra hạt, vun xới, cày bừa của nông dân Đinh Công Viên (H.Kim Bảng, tỉnh Hà Nam). Ảnh minh họa/internet. 

Ông Giang cho biết thêm, một số khó khăn khác trong quá trình theo đuổi đơn sáng chế ở Việt Nam lại liên quan đến sự mất cân đối đang ngày càng tăng lên giữa số lượng đơn được nộp và số lượng thẩm định viên, điều này gây ra hiện tượng quá tải đối với các phòng chuyên môn của Cục SHTT dẫn đến thời hạn thẩm định các đơn bị kéo dài. Trên thực tế hiếm có đơn sáng chế nào được thẩm định xong trong thời hạn luật định và rất nhiều đơn đã được thẩm định quá năm năm mà vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Việc tăng số lượng thẩm định viên để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng rất khó có thể được thực hiện trong một thời gian ngắn do cần phải có đủ kinh phí và thời gian cần thiết cho quá trình đào tạo. Hơn nữa, hiện tượng quá tải bởi số lượng đơn sáng chế đang tăng nhanh không chỉ là vấn đề của riêng Cục SHTT Việt Nam mà còn là khó khăn chung của nhiều cơ quan sáng chế khác trên thế giới. Do đó, để giải quyết tình trạng ùn tắc đơn kéo dài có lẽ chỉ có một cách giải quyết duy nhất là giảm bớt khối lượng công việc trong quá trình xử lý đơn. Trước hết cần triệt để tận dụng kết quả thẩm định của các cơ quan thẩm định đơn quốc tế (IPEA) và các cơ quan sáng chế nước ngoài có hệ thống luật sáng chế gần gũi với Việt Nam.

Trên thực tế các thẩm định viên Việt Nam đều tham khảo kết qủa thẩm định của các cơ quan sáng chế nước ngoài nhưng điều này cần phải được luật hóa để bảo đảm tính nhất quán, ví dụ phải qui định cụ thể kết quả thẩm định của các cơ quan sáng chế nước ngoài nào có thể được chấp nhận ở Việt Nam hoặc sau khi người nộp đơn cung cấp bản sao của sáng chế nước ngoài cấp cho cùng sáng chế thì sau bao lâu thẩm định viên phải đưa ra kết luận về khả năng cấp bằng cho đơn Việt Nam. Tương tự như vậy, nên có qui định về việc cấp văn bằng tự động cho các đơn sáng chế quốc tế đã được cơ quan thẩm định quốc tế kết luận là có tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp.

Ngoài ra, nhiều thủ tục hành chính rườm rà cũng là một lý do làm quá trình nộp và theo đuổi đơn đăng ký sáng chế trở nên phức tạp một cách không cần thiết. Ví dụ, khi người nộp đơn cần thay đổi tên hoặc địa chỉ thì các thẩm định viên chỉ yêu cầu nộp một bản xác nhận tên, địa chỉ mới có chữ ký của người nộp đơn, đối với cá nhân, hoặc đại diện của người nộp đơn, đối với pháp nhân, là đủ. Tuy nhiên, sau khi sáng chế đã được cấp bằng mà chủ văn bằng cần đổi tên hoặc địa chỉ thì bản xác nhận nêu trên lại cần phải có sự xác nhận của công chứng viên. Việc yêu cầu phải công chứng tài liệu này vừa thiếu nhất quán vừa không cần thiết. Chính chủ văn bằng mới là người quan tâm nhất đến việc tên và địa chỉ của mình được ghi đúng và đủ trên văn bằng. Hơn nữa, nếu có trường hợp hy hữu xảy ra là chủ văn bằng cố tình khai man tên và địa chỉ để được ghi nhận sai trên văn bằng thì người này sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Để khuyến khích người nộp đơn sáng chế cũng nên cải tiến hệ thống phí và lệ phí dành cho việc nộp và xử lý đơn. Hệ thống phí của Việt Nam hiện nay hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế vì không phân biệt đối xử đối với người nộp đơn trong nước và người nộp đơn nước ngoài. Thế nhưng, nếu duy trì một mức phí phù hợp với người nộp đơn nước ngoài thì lại quá cao đối với người nộp đơn trong nước, nhất là người nộp đơn là các tác giả sáng chế. Ngược lại, nếu mức phí phù hợp với người nộp đơn trong nước thì lại gây thiệt hại lớn cho ngân sách. Để khắc phục tình trạng này có lẽ nên duy trì một mức phí tương đối cao nhưng đồng thời lại áp dụng một cơ chế ưu đãi phù hợp cho những người nộp đơn là cá thể hoặc doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Đây mới là một số khó khăn mà người nộp đơn hoặc người đại diện của họ thường gặp phải trong khi nộp hoặc theo đuổi đơn sáng chế tại Việt Nam, hy vọng thời gian tới những khó khăn này sẽ từng bước được giải quyết.

Quang Tuấn