QĐND - Nhằm đánh bại cuộc “Hành quân Lam Sơn 719” của Mỹ-ngụy, tiêu diệt lớn quân dịch, đầu năm 1971, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công ở khu vực Đường 9-Nam Lào. Đây là chiến dịch cả ta và địch đều sử dụng khối chủ lực tương đối mạnh, được trang bị khá hiện đại. Lần đầu tiên quân đội ta tiến hành một chiến dịch phản công hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn (tương đương quân đoàn tăng cường) đánh tiêu diệt lực lượng lớn quân địch. Đối với quân đội ta, việc mở chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào (từ 30-1 đến 23-3-1971) thể hiện những nét mới về nghệ thuật tác chiến phản công.

Trên cơ sở chủ động theo dõi chặt chẽ và nắm chắc tình hình, ta đã xác định đúng hướng tiến công chủ yếu của địch là Đường 9-Nam Lào. Vì vậy, ngay từ đầu ta đã giành quyền chủ động chiến dịch và từng bước củng cố, phát huy tốt quyền chủ động đó, giữ vững trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch. Ta đã xác định ý định chiến dịch chính xác như chọn khu vực từ Lao Bảo đến Bản Đông làm địa bàn tác chiến chủ yếu để tiêu diệt địch. Bên cạnh đó, khu vực Tây Bắc Bản Đông-Cha Ky là nơi đánh ngăn chặn địch. Khu vực đông Lao Bảo, Sa Mưu, Đông Hà, Cửa Việt là nơi ta tổ chức đánh phá giao thông, tiêu hao lực lượng địch ở nơi hậu cứ của chúng. Đồng thời, ta xác định 3 hướng phản công: Hướng phản công chủ yếu từ hướng bắc vào các điểm cao 316, 553, 543, Bản Đông và Lao Bảo. Hướng phản công thứ yếu từ hướng nam vào hai điểm cao 550 và 334. Hướng phản công phối hợp từ hướng tây vào Sê Pôn và điểm cao 748.

Hội nghị Bộ tư lệnh chiến dịch bàn phương án tác chiến phản công Đường 9-Nam Lào. Ảnh tư liệu.

Trong chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào có 4 tình huống cơ bản, ta đều dự đoán khá chính xác và chủ động đối phó hiệu quả. Đầu năm 1971, căn cứ vào âm mưu và kế hoạch triển khai lực lượng của địch, ta sẵn sàng đối phó với cả hai tình huống: Địch hành quân ra khu vực Đường 9-Nam Lào, đồng thời có thể tiến công ra nam Quân khu 4, nhờ vậy, ta đã bố trí khối chủ lực cơ động (Binh đoàn 70) ở ngay sau địa bàn nam Quân khu 4 để chủ động đối phó với cả hai tình huống. Đến khi phát hiện ngày càng rõ, nam Quân khu 4 chỉ là hướng địch nghi binh, ta đã kịp thời chuyển trọng tâm chuẩn bị, nhanh chóng điều động lực lượng chủ lực lớn vào hướng Đường 9-Nam Lào để thực hành phản công. Bên cạnh đó, dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân địa phương, ta đã phát huy được sức mạnh của cả lực lượng tại chỗ và lực lượng chủ lực cơ động đánh tiêu hao sinh lực, ngăn chặn làm suy yếu sức tiến công của quân địch. Trong chiến dịch này, lực lượng tại chỗ gồm các đơn vị bộ binh, đặc công, phòng không, công binh của Đoàn 559, Mặt trận Trị-Thiên (B4), Mặt trận Đường 9 (B5) đã phối hợp với các đơn vị chủ lực cơ động bắn rơi nhiều máy bay lên thẳng, phương tiện cơ động chủ yếu của địch để tiến hành hành quân, làm thất bại một bước ý đồ tiến công của địch. Trên khu vực Đường 9, ta sử dụng Trung đoàn 24 và Trung đoàn 66 phòng ngự đánh ngăn chặn địch, tạo điều kiện để tập trung lực lượng tiêu diệt cánh quân phía Bắc, sau đó đánh bại cánh quân phía Nam của địch, làm thay đổi so sánh lực lượng và thế trận có lợi cho ta, thúc đẩy chiến dịch phát triển.

Nét nổi bật trong chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào là vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch phản công, thực hiện thắng lợi các trận then chốt. Bộ tư lệnh chiến dịch đã vận dụng sáng tạo các nguyên tắc tác chiến của quân đội ta vào điều kiện cụ thể của chiến trường Đường 9-Nam Lào, kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự với tiến công, từng bước làm giảm sức tiến công của địch, tiêu diệt từng cụm quân địch, lần lượt đánh bại các thủ đoạn chiến thuật-chiến dịch của địch, đặc biệt là tập trung đánh địch để giành thắng lợi trong các trận then chốt. Các trận then chốt trong chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào đều là những trận tiến công cụm quân địch đã chiếm các điểm cao. Đó là trận Trung đoàn 102 (Sư đoàn 308) tiến công bao vây địch ở điểm cao 500 (từ ngày 16 đến ngày 20-2-1971), diệt gọn Tiểu đoàn 39 biệt động quân có ý nghĩa rất quan trọng, buộc địch phải rút tiểu đoàn 21 biệt động quân ở điểm cao 316, làm thất bại ý đồ án ngữ hướng Bắc của địch. Trận Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320) được tăng cường một đại đội xe tăng, pháo binh đánh điểm cao 543 (từ ngày 20 đến 25-2-1971), diệt 370 tên, bắt 170 tên, trong đó có Đại tá Nguyễn Văn Thọ cùng toàn bộ Ban Tham mưu Lữ đoàn 3 ngụy, uy hiếp địch trên trục Đường 9. Trận Sư đoàn 2 (thiếu) được tăng cường một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) tiến công điểm cao 723 (từ ngày 12 đến ngày 16-3-1971), loại khỏi vòng chiến đấu Trung đoàn 1 thuộc Sư đoàn 1 địch, tạo điều kiện để ta tiếp tục tiến công diệt địch ở các điểm cao 660, 550, 540, 532, tiến tới bao vây tiến công, buộc địch phải rút chạy, ta giải phóng Bản Đông, kết thúc chiến dịch.

Chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào năm 1971 thắng lợi có ý nghĩa chiến lược to lớn, đánh dấu bước phát triển về nghệ thuật tác chiến phản công của quân đội ta. Đó là phán đoán đúng hướng tiến công của địch, xác định hướng tiến công chủ yếu của địch, đánh giá đúng chỗ mạnh, yếu của địch, tổ chức khối chủ lực cơ động và lực lượng tại chỗ, lập kế hoạch chiến dịch phản công, dự đoán được các tình huống cơ bản, xu thế phát triển và sẵn sàng đối phó khi cần thiết. Trên cơ sở đó, phát huy sức mạnh cả lực lượng tại chỗ và lực lượng chủ lực cơ động đánh tiêu hao sinh lực, ngăn chặn làm suy yếu sức tiến công của quân địch, tiêu diệt từng cụm quân địch, lần lượt đánh bại các thủ đoạn chiến thuật-chiến dịch của địch, đặc biệt là tập trung nỗ lực trong các trận then chốt, thúc đẩy chiến dịch phát triển và kết thúc thắng lợi. Chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào đánh dấu bước phát triển cao của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam nói chung, nghệ thuật tác chiến chiến dịch phản công nói riêng. Thắng lợi của chiến dịch khởi đầu thời kỳ quân đội ta mở các chiến dịch đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, tiến tới cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đại tá, TS Dương Đình Lập