QĐND - Nhằm tiêu diệt bộ phận lớn quân địch, phá vỡ tuyến phòng thủ của chúng, phối hợp với các hướng khác trên chiến trường miền Nam, tháng 3-1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch tiến công trên địa bàn hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên (hướng chủ yếu trong cuộc tiến công chiến lược 1972). Đây là chiến dịch ta tập trung lực lượng lớn bộ binh (41 tiểu đoàn) và nhiều đơn vị binh chủng cùng lực lượng vũ trang trên địa bàn chiến dịch tiến công lực lượng lớn quân địch trên tuyến phòng thủ bắc Quảng Trị. Đối với quân đội ta, việc mở chiến dịch tiến công Trị-Thiên (từ ngày 30-3 đến 27-6-1972) thể hiện những nét nổi bật về nghệ thuật tác chiến tiến công.

Trên cơ sở theo dõi chặt chẽ và nắm chắc tình hình, Bộ tư lệnh Chiến dịch xác định các hướng tiến công, khu vực tác chiến và bố trí lực lượng trên từng hướng chiến dịch. Về hướng tiến công, Bộ tư lệnh Chiến dịch xác định: Ta tổ chức lực lượng tiến công trên 4 hướng (tây và tây-bắc, đông, nam) bằng 4 cánh quân. Sau khi nghiên cứu, phân tích tình hình thực tế chiến trường, Bộ tư lệnh Chiến dịch quyết định chọn hướng tiến công chủ yếu từ tây và tây-bắc vào các cứ điểm Động Toàn, 544, Bãi Sơn, Đầu Mầu, Mai Lộc, Hướng Hóa và khu vực tập trung tiêu diệt lớn quân địch là trên tuyến phòng ngự chiến lược từ Đông Hà, Ái Tử, La Vang đến Quảng Trị. Lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu gồm 2 sư đoàn bộ binh 308, 304; 9 trung đoàn bộ binh, pháo binh, pháo phòng không cùng gần 10 tiểu đoàn xe tăng, đặc công và bộ đội địa phương.

Bộ đội ta đánh chiếm cứ điểm Đầu Mầu trong Chiến dịch Quảng Trị 1972. Ảnh tư liệu

Hướng thứ yếu, chia cắt (hướng nam) chiến dịch từ động Ông Gio vào khu vực Phượng Hoàng, nam-bắc sông Quảng Trị và khu vực đánh chia cắt triệt đường tiếp tế của địch ở bắc sông Mỹ Chánh. Lực lượng tiến công gồm Sư đoàn 324, một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, binh chủng và bộ đội địa phương Quảng Trị. Hướng vu hồi, thọc sâu, từ hướng đông đánh vào khu vực Cửa Việt, Quảng Trị, với lực lượng gồm các tiểu đoàn bộ binh, đặc công, pháo binh, Đoàn 126 đặc công nước Hải quân và bộ đội địa phương.

Điểm nổi bật của chiến dịch là ta tập trung lực lượng tiến công phá thế phòng thủ của địch. Căn cứ vào kế hoạch tác chiến, nhiệm vụ trước tiên của bộ đội ta là tập trung phá tan tuyến phòng thủ bên ngoài của địch để nhanh chóng đưa lực lượng vào tiến công Đông Hà, Ái Tử, Mai Lộc. Theo kế hoạch, ngày 30-3-1972, đúng lúc địch đang thay quân, bộ đội ta trên các hướng đồng loạt nổ súng tiến công vào các căn cứ địch ở nam, bắc đường số 9, mở màn chiến dịch (sớm hơn dự định 4 ngày). Sau 5 ngày chiến đấu, bộ đội ta ở các hướng đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, trên hướng chủ yếu, ta tiêu diệt một bộ phận lực lượng địch, phá vỡ tuyến phòng thủ vững chắc vòng ngoài của chúng, chiếm lĩnh nhiều vị trí quan trọng, giải phóng các huyện Gio Linh, Cam Lộ, buộc địch phải rút bỏ toàn bộ tuyến phòng thủ trên đường số 9 với 4 căn cứ trung đoàn và 7 căn cứ tiểu đoàn. Tiếp đó, ta phát triển tiến công, buộc địch phải phòng ngự thành 3 cụm: Đông Hà, Ái Tử, La Vang.

Sau một thời gian củng cố lực lượng, ngày 26-4-1972, quân ta mở đợt 2 chiến dịch. Trên các hướng, bộ đội ta liên tục tiến công vào các vị trí địch ở bên trong, điển hình là các trận Đông Hà, Ái Tử, La Vang. Sau 6 ngày chiến đấu, ta tiêu diệt một tập đoàn phòng ngự mạnh nhất của địch, đánh bại thủ đoạn phòng ngự mới của chúng là co cụm, lấy xe tăng, thiết giáp làm nòng cốt để ngăn chặn, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, do ta chưa dự kiến trước tình huống địch tan vỡ nhanh, chưa chuẩn bị tốt các yếu tố phát triển tiến công khi địch rút chạy từ Quảng Trị xuống phía nam sông Mỹ Chánh, nên bỏ lỡ thời cơ diệt địch. Ngày 2-5-1972, ta kết thúc đợt 2 chiến dịch. Đến ngày 20-6-1972, ta tổ chức đợt 3, tiếp tục phát triển tiến công về phía nam sông Mỹ Chánh, nhằm phá thế phòng thủ của địch từ Mỹ Chánh, động Chiêm Dòng đến Đồng Lâm. Thế nhưng, địch tăng cường lực lượng dự bị chiến lược, thực hiện phản kích tái chiếm Quảng Trị. Do lúc này bắt đầu mùa mưa, việc thực hiện vận chuyển vật chất bảo đảm cho chiến dịch gặp nhiều khó khăn, sức chiến đấu của bộ đội giảm sút, đêm 27-6-1972, ta chủ động kết thúc chiến dịch.

Chiến dịch tiến công Trị-Thiên năm 1972 thắng lợi có ý nghĩa chiến lược to lớn, đánh dấu bước phát triển về nghệ thuật tác chiến tiến công của quân đội ta. Đó là nghệ thuật tạo ưu thế chiến dịch và duy trì ưu thế trong quá trình chiến dịch đến khi giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị; là nghệ thuật xác định đúng các hướng tiến công, nhất là hướng tiến công chủ yếu và khu vực tác chiến chủ yếu. Trên cơ sở đó, ta phát huy thế tiến công binh chủng hợp thành quy mô lớn, kết hợp chặt chẽ giữa tiêu diệt địch và phá thế phòng thủ của chúng, vừa tổ chức đột phá mạnh, vừa thọc sâu vu hồi, bao vây, chia cắt chiến dịch, tiến công quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng, nhanh chóng tiêu diệt địch. Chiến dịch tiến công Trị-Thiên đánh dấu bước phát triển cao của nghệ thuật chiến dịch tiến công. Thắng lợi của chiến dịch góp phần cùng với thắng lợi to lớn của các chiến dịch khác trong cuộc tiến công chiến lược 1972, làm thay đổi hẳn so sánh thế và lực trên chiến trường miền Nam có lợi cho ta, góp phần buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải ký Hiệp định Pa-ri, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP