QĐND - Trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, nhân dân thị xã (nay là thành phố) Hà Tĩnh đã lập nhiều chiến công hiển hách. Trong hàng vạn cá nhân, hàng trăm đơn vị xuất sắc của quê hương Hà Tĩnh có một trung đội súng máy phòng không 12 ly 7 (gọi tắt là Trung đội) của dân quân thị xã chiến đấu kiên gan, bền bỉ trong 7 năm trời (từ 1965 đến 1972) lập thành tích xuất sắc bắn rơi 4 máy bay chiến đấu của không quân Mỹ. Những sự tích anh hùng đó vẫn còn được người dân địa phương nhắc nhớ.

Một ngày giữa tháng tư trong nắng hè chói lọi miền Trung, trong những đợt gió Tây hun hút bất tận, chúng tôi đã tìm đến nhà của những cựu chiến binh trong Trung đội năm xưa. Người ta khó có thể tin vào mắt mình khi gặp những con người anh hùng một thuở giờ về giữa đời thường. Bà lão bỏm bẻm nhai trầu, cụ ông run run từng bước chân... không còn ai có thể nhận ra đó là những anh hùng diệt máy bay Mỹ. Ấy thế nhưng, nhìn ánh mắt rạng ngời của họ, ta sẽ tin. Trong những đôi mắt đó có ngọn lửa của niềm tin, và trên tất cả sóng sánh tình người, tình đời một thuở thanh tân hào sảng.

 

Hình ảnh tư liệu về Trung đội súng máy phòng không 12 ly 7 của thị xã Hà Tĩnh hiện còn rất ít.

Cụ Trương Văn Thịnh năm nay 75 tuổi, người từng tham gia bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, sau khi giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, cụ đã được “tái nhiệm” làm trung đội trưởng đầu tiên của Trung đội 12 ly 7 của thị xã. Cụ Thịnh làm trung đội trưởng 2 năm, sau đó lại tái ngũ để vào chiến trường miền Nam chiến đấu đến ngày thống nhất đất nước. Một đời chinh chiến đó giờ chỉ còn lẩn khuất nơi ánh mắt nhớ thương, nụ cười chiến thắng, và cả những vết thương mang trên mình. Cụ Thịnh nhớ lại: “Đầu năm 1965, cấp trên xác định địch sẽ leo thang đánh phá và thị xã Hà Tĩnh sẽ là trọng điểm, thị xã đã chỉ đạo chúng tôi thành lập trung đội dân quân để phối hợp với máy bay tầm thấp”. Trung đội lúc đó có 4 khẩu trung liên, loại cũ, thế nhưng trong trận đầu ngày 26-3-1965, trung đội đã phối hợp với các lực lượng phòng không toàn tỉnh bắn hạ 12 máy bay Mỹ. Sự kiện này đã trở thành ngày truyền thống của quân dân Hà Tĩnh ra quân đánh thắng trận đầu.

Có một điểm rất lạ, đó là vào thời điểm ngày 26-3 đó, Trung đội này hoàn toàn là những người dân bình thường, được trang bị vũ khí, được huấn luyện sơ qua về vũ khí, khí tài, cùng với kinh nghiệm chiến đấu của một cựu chiến binh chống Pháp. Vậy mà Trung đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xua đuổi máy bay tầm thấp khiến chúng hoảng sợ phải ngóc đầu lên cao để lọt vào tầm đạn của các loại pháo phòng không. Phải sau đó 2 tháng, Trung đội mới được chính thức thành lập và trang bị 4 khẩu súng máy phòng không 12 ly 7. Lúc đó, các thành viên mới được huấn luyện quân sự một cách chi tiết.

Vào những ngày đầu thành lập, Trung đội có 35 người, gồm 20 nữ, 15 nam, chia thành 4 khẩu đội. Các đội viên trong Trung đội ăn ở tập trung và được phát quân phục, được nhận lương từ 32 đến 35 đồng. Trong 2 năm đầu, Trung đội đã xây dựng được một hệ thống phòng ngự với 200 hầm trú ẩn, 3.800 mét giao thông hào với các trận địa chốt tại Thạch Phú, Hồ Dâu, Bệnh viện tỉnh, Chợ trung tâm tỉnh... Trong năm 1967, Trung đội đã bắn rơi tại chỗ 2 chiếc máy bay phản lực; năm 1968 và 1972, mỗi năm bắn rơi một chiếc. Tổng cộng, Trung đội dân quân này đã bắn rơi 4 máy bay Mỹ.

Đến cuối năm 1967, hầu hết đội viên nam giới của Trung đội đều xung phong nhập ngũ vào chiến trường miền Nam chiến đấu, cụ Trương Văn Thịnh cũng ra đi trong đợt này. Chức vụ trung đội trưởng được trao cho bà Trương Thị Thống (hiện bà Thống đã 65 tuổi), Trung đội chỉ còn 5 nam giới, đều là thanh niên trẻ đang học năm cuối trung học. 5 anh được biên chế trong tổ trinh sát và rà phá bom. Còn nhiệm vụ bắn máy bay do 30 chị đội viên phụ trách. Các chị cũng có tuổi đời rất trẻ, từ 17 đến 20.

Cụ Trương Văn Thịnh (bên phải), trưởng ban liên lạc Trung đội súng máy phòng không 12 ly 7 của thị xã Hà Tĩnh.

Chúng tôi tìm gặp bà Trương Thị Thống để nghe kể về trận thương vong nặng nề của Trung đội. Bà Thống khóc rất nhiều. Bà nói, dường như còn nghe được tiếng nói của các em hôm đấy. Và bà cảm thấy day dứt khi nghĩ rằng trận thương vong này do một phần lỗi của bà. Bà nói: “Đó là trận đánh vào sáng 21-7-1972. Chị em tôi lúc đó đang tập trung tại trận địa Cồn Bùi. Khoảng 5 giờ sáng, vừa báo thức, chúng tôi người thì vệ sinh cá nhân, người còn đang chuẩn bị cơm nước, người đang thể dục... nhưng nghe tiếng máy bay lập tức chạy ùa ra trận địa. Thời điểm trước đó một thời gian dài ít máy bay đánh phá nên chị em "nhớ" và rất háo hức chiến đấu. Vừa thoáng thấy một tốp 2 chiếc lao vào, chị em nổ súng ngay. Tinh thần chiến đấu lên rất cao”.

Bà Thống cho rằng, trận này có một sai sót do cái tính “háo thắng” của chị em nhà mình. Bà nói: “Phụ nữ cả mà, đàn ông đi hết đâm ra kỷ luật quân đội khó làm nghiêm được”. Đã nhiều lần bà dặn chị em, khi đi lấy đạn chớ lấy đạn lửa vì đánh địch hầu hết đánh ban đêm, đạn lửa sẽ làm lộ mục tiêu, thế nhưng chị em bảo “kệ, bắn đạn lửa xem đạn trúng mục tiêu mới sướng”, bà cảm thấy lo. Vào trận chiến đấu, đáng ra với người có kinh nghiệm thì sẽ đánh chiếc đi sau, đằng này chị em phấn chấn quá, thấy tên đi đầu lọt vào tầm ngắm là nổ súng ngay. Trận địa bị lộ! Địch túm vào dùng bom, tên lửa... bắn phá ác liệt. Bốn khẩu súng máy có một khẩu bị tắc đạn, lập tức chị em hăng hái chạy sang hỗ trợ tổ khác. Trong lúc luồn lách dưới giao thông hào thì một quả bom rơi trúng, khiến ba người hy sinh, đó là: Trần Thị Hường, Trần Thị Hòa và Nguyễn Sĩ Thành. Bà Thống rơm rớm nước mắt nói: “Tại tụi nó hăng hái quá chứ nếu cứ ở nguyên trận địa thì giờ chắc vẫn còn. Hường và Hòa còn trẻ lắm, đều 17, 18 tuổi, còn Thành là con một”. Trong trận này Trung đội tiêu diệt một chiếc F4H. Chiến công đó không thể lấp đầy thương đau.

Thường ngày, chị Hường, chị Hòa, anh Thành đều là những con người sôi nổi, nhiệt tình. Các đội viên trong Trung đội hay hát lắm, tuần nào có buổi sinh hoạt văn nghệ các chị, các anh cũng thay nhau hát. Lâu lâu lại được giao lưu văn nghệ với các anh bộ đội... tiếng hát, tiếng hò vè rôm rả trận địa. Toàn Trung đội cũng học theo bộ đội tăng gia sản xuất, cải thiện bữa ăn, những vườn rau đã lên xanh non, lúa, ngô vàng mọng đang chờ thu hoạch vậy mà các anh, các chị đã đi xa. Tôi nghe bà Thống nói rưng rưng như với người đã khuất: “Cơm gạo mới đó các em, về ăn đi cho chị em đỡ tủi”. Thoáng trong bóng khói hơi sương, tôi như thấy những nụ cười trắng xóa hàm răng.

Chúng tôi bùi ngùi xúc động, cảm thấy những gương mặt rạng ngời, tươi sáng của các chị, các anh háo hức bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn. Cuộc chiến đấu không cân sức giữa một bên là vũ khí tối tân, một bên được chắp cánh bởi lòng quyết tâm và ý chí căm thù. Đôi khi tôi tự hỏi, những tốp máy bay kia, chúng tự cho mình là người đi săn, không biết có lúc nào chúng nghĩ chính chúng mới là con mồi không?

Trung đội súng máy phòng không 12 ly 7 của thị xã Hà Tĩnh năm xưa đã được đề nghị phong danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Tuy nhiên có mấy điểm khó, thứ nhất là về thời điểm thành lập, thời điểm giải thể, rồi người đứng ra làm đơn... Trong một thời gian dài từ năm 1972 đến năm 1991, các thành viên của Trung đội này trở về đời thường làm vợ, làm mẹ, nhiều người đi chiến đấu trở về vật lộn với cuộc mưu sinh. Đến sau này khi đã lên lão cả, cuộc sống được chút cải thiện, các cụ các bác mới lập ra ban liên lạc. Ban liên lạc do cụ Trương Văn Thịnh làm trưởng ban, còn Trung đội lấy ngày 26-3-1965, ngày phối hợp chiến đấu trận đầu và cũng là ngày quân dân Hà Tĩnh đánh thắng trận đầu làm ngày thành lập; rồi ngày giải thể đơn vị, trong nhiều tài liệu văn bản cũng không được ghi rõ, nhân chứng còn của Trung đội cũng chỉ nhớ mang máng là cuối năm 1972. Giấy tờ của Trung đội hiện còn lại giá trị nhất là một bảng nhận lương viết bằng tay, có chữ ký của các đội viên từ năm 1969, một Huân chương Chiến công hạng ba năm 1967, một Huân chương Chiến công hạng nhì năm 1969... Nhìn vào những giấy tờ này, tôi chỉ biết chia sẻ những cảm thông cho những thành viên của Trung đội. Cái tâm của các cụ các bác thật đáng quý, muốn được Nhà nước công nhận danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân để tôn vinh những đồng đội mình. Còn người dân Hà Tĩnh vẫn nghĩ từ lâu, đấy là Trung đội anh hùng của họ!

Niềm day dứt đó của chúng tôi được vơi đi ít nhiều khi gặp Thượng tá Lê Thanh Phác, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự thành phố Hà Tĩnh. Anh cho biết: “Việc đề nghị phong danh hiệu anh hùng cho Trung đội súng máy 12 ly 7 được các đồng chí lãnh đạo tỉnh rất quan tâm. Thường vụ tỉnh ủy đã giao nhiệm vụ cho Ban chỉ huy quân sự thành phố lập hồ sơ đề nghị. Hiện mọi giấy tờ liên quan đến việc này đã được hoàn tất và đã gửi các cơ quan chức năng Quân khu 4”. Chúng tôi tin rằng, những người anh hùng trong lòng nhân dân Hà Tĩnh sẽ sớm được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý.

Bài và ảnh: Lê Đông Hà