Thông tin liên lạc và truyền tin cấp chiến thuật phục vụ trực tiếp cho lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường, tuyến trước; bảo đảm nhiệm vụ thường xuyên và trong các tình huống khẩn cấp... Trang bị thông tin liên lạc và truyền số liệu chiến thuật thường được thiết kế nhỏ, gọn, có tính cơ động cao, hoạt động tin cậy và tốc độ lớn. Để đáp ứng yêu cầu của chiến tranh công nghệ cao, các trang bị thông tin liên lạc và truyền số liệu không ngừng phát triển, hiện đại hóa, đa năng và có khả năng tích hợp với các mạng thông tin liên lạc và truyền số liệu đang vận hành.
Đặc trưng thiết kế của khí tài thông tin hiện đại là tính tiêu chuẩn hóa với kết cấu mô-đun, có khả năng lắp lẫn và tích hợp hệ thống cao. Điển hình như họ máy thông tin vô tuyến điện RF-13 của Công ty Đích-côm (CH Séc) chế tạo, hoạt động trên tần số VHF, có khả năng tương hợp với các máy thông tin áp dụng tiêu chuẩn quân sự của NATO. Máy thông tin RF-13 thiết kế để sử dụng cho các đơn vị cấp tiểu đội đến trung đoàn. Máy trình bày ở hai dạng đeo vai và lắp đặt trên xe cơ giới, có khối mã hóa tiếng nói lắp sẵn, tốc độ 16 ki-lô-bít/giây và có khả năng lập trình trước. Máy có khả năng gọi được tất cả các nhóm đài, truyền dữ liệu số, cự ly liên lạc 10km (đeo vai) và 40km khi lắp trên xe cơ giới. Quân đội Pháp trang bị máy thông tin PRC-4300 cho phép dùng chung với các máy thông tin thuộc hệ Simcgar của Mỹ, NATO...
Phần lớn các trang bị thông tin liên lạc và truyền số liệu cấp chiến thuật hiện đại đều ứng dụng kỹ thuật số trong liên lạc, bảo mật truyền tin và kiểm soát hoạt động. Máy thông tin vô tuyến điện kỹ thuật số bảo đảm truyền tin thoại, truyền số liệu với tốc độ cao đã trang bị cho quân đội các nước khối NATO như RF-5800 của Công ty Ha-ri-xơ, CNR-9000 của Công ty Ta-đi-ran, PRG-4 của hãng Tha-lếch... Quân đội Mỹ phát triển hệ thống máy truyền tin vô tuyến chiến thuật ứng dụng kỹ thuật số Simcgar, hoạt động linh hoạt, truyền số liệu với tốc độ 115 ki-lô-bít/giây.
Khí tài thông tin liên lạc tiên tiến có khả năng bảo mật thông tin và tự bảo vệ rất cao nhờ sử dụng kỹ thuật mã hóa, nhảy tần và kỹ thuật quản lý đường truyền tự động. Hãng Thôm-xơn CFS (Pháp) phát triển hệ máy thông tin vô tuyến HF System-3000 có đặc tính quản lý đường truyền tự động, chế độ nhảy tần thông minh, khả năng thích nghi trong liên lạc và truyền số liệu tốc độ cao. Lục quân Mỹ phát triển hệ máy thông tin bền nhiễu SEM-143 và các máy thông tin hiện đại, ngoài khả năng nhảy tần nhịp độ cao, còn có khả năng tự điều chỉnh cộng hưởng.
Giảm trọng lượng là yêu cầu cơ bản đối với trang bị thông tin liên lạc và truyền số liệu cấp chiến thuật. Trước đây, các máy thông tin liên lạc thường quá nặng, nay nhờ ứng dụng công nghệ và vật liệu mới, máy thông tin ngày càng có kích thước nhỏ, gọn và nhẹ hơn, nhưng tính năng kỹ thuật, chiến thuật không ngừng tăng lên. Các máy thông tin PRC-139, PRC-710 ứng dụng kỹ thuật mới chỉ còn nặng dưới 1,36kg. Máy thông tin Raven-2 của quân đội Pháp, làm việc ở dải tần UHF, chỉ nặng dưới 2kg, trong khi cự ly liên lạc trực tiếp vẫn đạt từ 30km đến 40km. Nhiều loại máy thông tin liên lạc quân sự thu nhỏ kích thước để cầm tay, nặng dưới 700g, nhưng vẫn bảo đảm hoạt động trong dải tần VHF, có chế độ nhảy tần, mã hóa số và khả năng liên lạc thoại, truyền số liệu tốc độ cao.
Trang bị thông tin liên lạc và truyền số liệu cấp chiến thuật hiện đại sử dụng phổ biến cho tất cả các lực lượng và dần thay thế các máy thông tin không tương hợp. Hiện nay, Cục nghiên cứu và các dự án quốc phòng tiên tiến Mỹ (DARPA) đang triển khai dự án chế tạo các thiết bị thông tin chiến thuật, có khả năng nhận biết tình huống phục vụ cho các đơn vị nhỏ, ký hiệu SUO-SAS. Mục tiêu của dự án là xây dựng hệ thống mạng thiết bị truyền tin chiến thuật làm việc trên dải tần số từ 20 mê-ga Hz đến 2,5 gi-ga Hz. Hệ thống bao gồm một số mạng cục bộ LAN nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin, truyền số liệu phục vụ chỉ huy tác chiến, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Dự án cũng tập trung giải quyết những khó khăn về thông tin, truyền số liệu trong môi trường khắc nghiệt như ở đô thị, rừng rậm và trong điều kiện nhiễu loạn do đối phương gây ra. Đồng bộ với hệ thống và giữ vai trò trung tâm là các trang bị thông tin vô tuyến điện dã chiến, các phần mềm nhận biết tình huống, liên kết giữa các máy chiến thuật, đài tiếp sức và tổng đài nhánh... Đặc biệt, các trang bị thông tin liên lạc và truyền dữ liệu cấp chiến thuật không chỉ làm nhiệm vụ chiến thuật mà còn sử dụng trong các nhiệm vụ chiến lược, được ghép nối với hệ thống định vị toàn cầu (GPS), kết nối giữa phương tiện trên không và mặt đất, cho phép kết nối giữa các máy thông tin liên lạc vô tuyến điện lắp trên máy bay với các thiết bị đặt trên xe cơ giới.
NGUYỄN QUANG PHÁT