QĐND - Những thủ đoạn mà kẻ thù dự định đánh sâu vào nội bộ ta, sự tính toán của chúng cũng khá công phu. Nhưng kết quả là không đạt được gì cả. Tên Nguyễn Văn Học, Trưởng phòng Phản tình báo của an ninh quân đội chính quyền Sài Gòn cũng phải thú nhận như vậy.
Một số trường hợp tìm được người thân của cán bộ, chiến sĩ ta nhưng cứ mon men đụng vào là bị đánh bật ra. Một số đồng chí đã báo cáo rõ về trường hợp mà kẻ thù khêu gợi tổ chức cuộc gặp đối với người thân của đồng chí đó trong vùng chúng kiểm soát. Có đồng chí đề xuất với lãnh đạo và cơ quan nghiệp vụ về những ý kiến để ngăn chặn và đánh bại chúng nếu chúng tiếp tục thực hiện. Đây là điểm rất tuyệt vời của các đồng chí ta.
Từ thực tiễn trong đấu tranh với các thủ đoạn phá hoại của địch, có thể khẳng định rằng mọi thủ đoạn bẩn thỉu, hèn hạ của địch thực hiện trong điều kiện chúng ta ở giữa vòng vây của chúng nhưng tất cả những thủ đoạn đó đều bị đánh bại.
Cái mạnh nhất của chúng ta là ở chỗ toàn đội ngũ từ người chỉ huy cao nhất đến từng cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên đều rất vững vàng, tuyệt đối trung thành với cách mạng, có niềm tin là nhất định cách mạng sẽ thắng, một tập thể đã được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng tạo nên một sức mạnh kỳ diệu đủ sức đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù dù đó là những thủ đoạn tàn bạo và đê hèn, bỉ ổi nhất.
Từ tháng 10-1974, do kẻ địch phá hoại nên hoạt động Liên hợp quân sự không có hiệu quả, Chính phủ ta tuyên bố đình chỉ vô thời hạn cuộc họp Liên hợp quân sự 2 bên và Tổ liên hợp quân sự 4 bên.
Nhưng 2 đoàn ta vẫn ở lại Trại Đa-vít. Ta vẫn giữ quan hệ với Ủy ban Quốc tế nhất là 2 đoàn bạn Hung-ga-ri và Ba Lan, vẫn liên hệ với các nhà báo, vẫn tiếp tục tố cáo và lên án kẻ thù phá Hiệp định Pa-ri.
 |
Lá cờ cách mạng tung bay trên tháp nước Trại Đa-vít Tân Sơn Nhất hồi 9 giờ 30 phút ngày 30-4-1975 |
Chính quyền Sài Gòn rất căm tức, muốn buộc 2 đoàn ta đi nhưng không làm gì được. Chúng càng khống chế chặt hơn, bao vây chặt hơn, ngăn cản tất cả các hoạt động của ta, nhưng làm sao mà ngăn chặn hoàn toàn được.
Từ giữa tháng 3, đầu tháng 4-1975, quân ta giành chiến thắng dồn dập, đoàn ta ở Đa-vít nhìn rõ triển vọng quân ta sẽ tiến về giải phóng Sài Gòn. Việc liên lạc bằng máy bay với Lộc Ninh bị cắt đứt từ đầu năm, liên lạc bằng máy bay với Hà Nội không đều. Phái đoàn ta ở giữa Sài Gòn, cấp trên không tiện phổ biến sớm về phương hướng tác chiến của ta nhất là qua điện đài. Mọi người bàn luận sôi nổi, phán đoán tình hình và triển vọng phát triển chiến đấu. Và đặc biệt là có nhiều suy nghĩ về phái đoàn ta ở đây phải làm gì, làm như thế nào nếu quân ta tiến công Sài Gòn.
Ngày 8-4-1975, Đảng ủy của 2 đoàn họp phân tích tình hình, dự kiến những tình huống có thể xảy ra với đoàn ta và hạ quyết tâm là dù tình hình nào thì chúng ta phải chuẩn bị mọi mặt cho bám trụ, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tại chỗ.
Hai đoàn ta ở vào vị trí mà bốn bề kẻ địch đã vây hãm rất chặt chẽ. Trong cơn giãy chết, kẻ địch chắc chắn sẽ không từ một thủ đoạn tàn ác nào để tiêu diệt 2 đoàn quân sự cách mạng.
Các đồng chí lãnh đạo cấp trên cũng rất chú ý đến vấn đề an toàn của 300 cán bộ, chiến sĩ Trại Đa-vít. Đồng chí Lê Đức Thọ điện động viên và nhắc nhở giữ vững bản chất Bộ đội Cụ Hồ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo tổ chức sẵn sàng chiến đấu bảo toàn lực lượng và phải đề phòng kẻ địch có những hành động tàn bạo với đoàn ta. Bộ chỉ huy Miền và Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh báo cho đoàn ta là khi quân ta bắt đầu tấn công vào Sài Gòn sẽ có một cánh đặc công vào Trại Đa-vít đón đoàn ra nơi an toàn. Chỉ để lại lực lượng vệ binh và một ít cán bộ. Chuẩn bị sẵn sàng, thời điểm đến là đi được ngay.
Lúc này là ngày 15-4-1975. Rất gấp rồi. Đảng ủy và chỉ huy 2 đoàn họp lại ngay. Trong cuộc họp ta phân tích kỹ tình hình mọi lẽ, dự kiến các tình huống có thể xảy ra và có một suy nghĩ rất thống nhất là xin cấp trên cho ở lại sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tại chỗ.
Những ý phân tích thống nhất như sau: Nếu rút đại bộ phận ra là một lực lượng khá đông hơn 200 người, quãng đường xa 10km trong điều kiện địch bố phòng khá chặt, chúng lại đang ở tình trạng đề phòng bị ta tấn công. Như vậy, rất dễ bị chúng phát hiện, ta rất dễ bị động và sự tổn thất sẽ rất lớn nếu đụng địch. Nếu ở lại bám trụ chiến đấu thì ta có đủ những yếu tố cần thiết bảo đảm chiến đấu được. Tuy vũ khí ta ít nhưng ta chuẩn bị chu đáo, ý chí chiến đấu kiên định, nhiều đồng chí dày dạn trong chiến tranh có thể chiến đấu cầm cự được một số ngày đủ để cho đại quân ta vào tiếp ứng.
Tình thế hiện nay quân ta thắng như chẻ tre, chính quyền Sài Gòn mất Quân khu 1, Quân khu 2, binh lính tan rã tràn về Sài Gòn làm cho ngụy quân tại chỗ càng mất tinh thần. Khi bị quân ta đánh thì chỉ còn nước lo mà tháo chạy. Đơn vị nào vào đánh ta thì đâu còn tinh thần mà chấp hành mệnh lệnh của cấp trên triệt để nữa. Có một suy nghĩ nữa là 2 đoàn bạn Hung-ga-ri – Ba Lan đã và đang hết lòng tương trợ hai đoàn ta trong những ngày căng thẳng, nay ta lặng lẽ rút đi một mình thì không thể đành lòng.
Ba trăm cán bộ, chiến sĩ đi vào tổ chức sẵn sàng chiến đấu rất khẩn trương. Toàn bộ Trại Đa-vít như một công trường ngầm, rất lặng lẽ bí mật triển khai xây dựng một trận địa chiến đấu hoàn chỉnh. Ta chỉ có 30 khẩu AK và CKC, cán bộ mỗi người một khẩu súng ngắn và vừa được bổ sung 2 va ly thủ pháo chống tăng nên càng phải làm công sự vững chắc. Toàn Trại Đa-vít chia làm 7 khu vực chiến đấu, có 2 sở chỉ huy, có hầm quân y làm được trung phẫu thuật, 2 hầm kho dự trữ lương thực, thực phẩm, có hệ thống giao thông hào từ nhà này sang nhà kia (gần 40 nhà), trong nhà có hầm trú ẩn sâu 2m có nắp đậy tránh pháo, hệ thống điện thoại từ sở chỉ huy đến các đài quan sát và từng khu vực chiến đấu. Chỉ có 2 xà beng và một số xẻng của chiến sĩ nhưng khắc phục khó khăn sử dụng tất cả những gì sẵn có như cọc màn bằng sắt, dao găm, đĩa sắt của chị nuôi để đào và xúc đất.
Chỉ trong khoảng 10 ngày ta đã hoàn thành trận địa chiến đấu. Thật là một kỳ công và chỉ có sức mạnh ý chí tuyệt vời mới làm nên điều đó.
Ta thấy máy bay địch dồn về Tân Sơn Nhất rất nhiều, nó tập trung đậu gần khu đoàn ta ở. Ban chỉ huy đoàn điện ra Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đề nghị bắn pháo mạnh vào sân bay, không vì thấy máy bay ở sát trụ sở đoàn ta mà để mất thời cơ.
Bức điện nói rõ: “Chúng tôi đào hầm và giữ vững vị trí chiến đấu tại đây. Đề nghị pháo binh ta cứ bắn thật mãnh liệt đừng lo cho chúng tôi ở trong này. Chúng tôi rất lấy làm vinh dự sẵn sàng nhận sự hy sinh để chiến dịch toàn thắng, sự nghiệp cách mạng toàn thắng” (trích trang 214 - Hồi ký Đại thắng mùa xuân của Đại tướng Văn Tiến Dũng).
Hệ thống hầm hào vừa xong thì chiều 28-4-1975, một tốp máy bay A37 (sau được biết máy bay ta chiếm được của địch do anh em ta lái) ném 2 loạt bom trúng đội hình máy bay địch cách trụ sở đoàn ta một bức tường rào, mảnh bom và đất đá bay rào rào sang khu trụ sở ta. Nhưng đã có hầm hào nên tất cả an toàn. Đến 3 giờ sáng 29-4-1975 pháo ta bắn dồn dập vào sân bay Tân Sơn Nhất. Sân bay chìm trong khói lửa. Đoàn ta có hai đồng chí làm nhiệm vụ bị hy sinh, một số đồng chí bị thương. Từ cự ly 18-24km bắn hàng nghìn quả đạn pháo vào sân bay, có một số quả tản mát sang Trại Đa-vít là điều dễ hiểu. Các đồng chí lãnh đạo đoàn chủ trương không báo cáo ngay việc đoàn ta có người thương vong vì đạn pháo. Bởi nếu báo cáo sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý của các pháo thủ ta khi bắn...
Những suy nghĩ và việc làm trên đây của 2 đoàn quân sự ta càng chứng tỏ luôn nghĩ đến việc lớn, tất cả cho chiến thắng dù bản thân mình và đơn vị gặp hiểm nguy hoặc hy sinh cũng lấy làm vinh dự không hề tính toán.
Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta cũng như các nước trên thế giới, kể cả với câu chuyện huyền thoại con ngựa thành Tơ-roa, chưa từng có trường hợp nào mà một bên đối địch lại hợp pháp cắm được một bộ phận lực lượng của mình công khai đứng tại trung tâm đầu não của đối phương, trước đại diện dư luận của cộng đồng quốc tế tập trung tại đây.
Bộ phận lực lượng ấy dõng dạc phân tích phải trái các ý đồ và hành động của mỗi bên, lên án những việc làm xằng bậy của đối phương, lý giải, chứng minh một cách thuyết phục cho những bước đi bắt buộc của mình để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ đạo lý và cuối cùng ca khúc khải hoàn với đại quân ngày chiến thắng đã vang lên.
Tạo được điều kỳ diệu độc đáo này là do đường lối đúng đắn, phương cách sáng tạo của Đảng ta, sự chỉ đạo sắc sảo của các cấp trên trực tiếp. Trong đó còn có bản lĩnh và sự nỗ lực vượt bậc, không ngại hy sinh, gian khổ, một lòng một dạ trung thành với sự nghiệp cách mạng của hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ thành viên hai đoàn đại biểu quân sự của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh ngoại giao quân sự thi hành Hiệp định Pa-ri về Việt Nam.
--------------
*Trận địa cách mạng kiên cường giữa sào huyệt địch (Kỳ 1)
*Trận địa cách mạng kiên cường giữa sào huyệt địch (Kỳ 2)
Nhóm phóng viên Quốc phòng - An ninh