Kẻ thù sử dụng rộng rãi điều tra tình báo, chiến tranh tâm lý
Những căn nhà mà họ chuẩn bị sẵn cho trưởng đoàn của ta trông có vẻ khấm khá hơn các nhà khác. Nhưng các trưởng đoàn ta không sử dụng. Bộ phận chống nghe trộm kiểm tra phát hiện và bóc gỡ một số máy ghi âm tinh xảo tại đây và một vài nơi khác.
Có ưu thế về kỹ thuật thông tin, chúng phá sóng, gây nhiễu và đánh cắp bí mật qua hệ thống đó. Nhưng ta tỉnh táo ngăn chặn nên đã vô hiệu hóa được loại thủ đoạn này.
Các loại sĩ quan quân đội chính quyền Sài Gòn bố trí ở các cấp trưởng đoàn, tiểu ban, các bộ phận thường liên hệ với ta, kể cả những nhân viên phục vụ như lái xe, điện nước… đa số là tình báo, phản gián, tâm lý chiến hoặc được bọn tình báo giao nhiệm vụ cụ thể.
Dương Hiếu Nghĩa, một tên đại tá tâm lý chiến là Ủy viên Phủ đặc ủy Trung ương tình báo ngụy. Khi bị ta tấn công vạch mặt phá hoại thì Nghĩa bộc lộ: “Trong người tôi chỉ có dòng máu chống cộng sản”.
Trần Vĩnh Đắt, Đại tá, Trưởng tiểu ban trao trả của chính quyền Sài Gòn đã từng là giám đốc trại giam Phú Lợi và đã có vụ đầu độc làm chết hơn 1000 người cách mạng bị giam ở Phú Lợi. Đắt cũng là một sĩ quan trong Phủ đặc ủy Trung ương tình báo ngụy.
Phan Hòa Hiệp, một Chuẩn tướng phó đoàn chính quyền Sài Gòn, vốn là thanh niên vũ trang tay sai của Nhật - thanh niên phòng vệ đoàn, tham gia đệ tam sư đoàn do bọn giả danh cách mạng đứng ra tổ chức, khi Pháp đánh trở lại thì lực lượng này đầu hàng giặc, mà Phan Hòa Hiệp cũng nằm trong số đó.
Các đại tá như Nguyễn Tử Đóa, Dương Đình Thụ, Phan Văn Tiến; các trung tá, thiếu tá như Trần Công Hầu, Đinh Công Chất, Phạm Huấn, Phan Nhật Nam… đều là người của CIA, Cục An ninh quân đội chính quyền Sài Gòn, của bộ máy tâm lý chiến.
Chúng là những tên có hận thù với cách mạng, rất ranh mãnh moi móc các tin tức bí mật, có nhiều thủ đoạn để khiêu khích, kích động và tác động tâm lý.
 |
Quân Mỹ lên máy bay rút khỏi miền Nam Việt Nam tại sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 16-3-1973.Ảnh: ST. |
Đáng chú ý là kẻ thù nắm hàng trăm tên đầu hàng phản bội từ hàng ngũ ta chạy sang. Chúng sử dụng số này làm nhiều việc để phá ta, trong đó có việc cung cấp những tin tức mà chúng biết về một số cán bộ, chiến sĩ trong phái đoàn ta. Chúng đặc biệt quan tâm tìm hiểu những thân nhân của các đồng chí ta mà những thân nhân đó đang sinh sống và làm việc trong vùng chúng tạm kiểm soát.
Chúng ta đã phát hiện kẻ địch tìm hiểu được một số thân nhân của các đồng chí ta, chúng đã có kế hoạch tính toán cách sử dụng. Nhưng chúng ta đã tỉnh táo chặn tất cả các ngả đường. Đặc biệt, có một trường hợp ta phát hiện ý định của địch hòng đánh sâu vào nội bộ ta. Chúng biết được có một sĩ quan của ta là anh ruột của Thiếu tá ngụy Bùi Thiện Khiêm. Khiêm đang là sĩ quan công binh nhưng tình báo ngụy điều về phụ trách điện nước ở trại Đa-vít.
Phát hiện Khiêm có vài biểu hiện khác thường, lập tức ta triển khai một kế hoạch theo dõi chặt chẽ. Đúng như dự kiến, Khiêm gặp được người anh là sĩ quan ta. Và ta đã vô hiệu hóa thủ đoạn của địch sử dụng Khiêm. Đồng chí sĩ quan của ta, anh của Khiêm, chính là một mắt xích quan trọng chặn đứng tham vọng của địch, làm thất bại ý đồ đen tối của chúng.
Sau giải phóng, khai thác những tên an ninh tình báo của chính quyền Sài Gòn bị bắt và những tài liệu thu thập được, ta biết rằng tất cả mọi việc phá hai đoàn ta là nằm trong một kế hoạch tình báo hỗn hợp.
Kế hoạch này của 5 cơ quan cùng chuẩn bị và thực hiện. Đó là: Phủ đặc ủy Trung ương tình báo ngụy, Tổng nha Cảnh sát, Phòng 2 Bộ Tổng tham mưu ngụy, Cục An ninh quân đội ngụy và CIA Mỹ ở Sài Gòn.
Theo khai báo của Trần Hữu Độ, Đại tá, Cục phó Cục An ninh quân đội chính quyền Sài Gòn và Nguyễn Văn Học, Đại tá, Trưởng phòng Phản tình báo Cục An ninh quân đội chính quyền Sài Gòn thì kế hoạch này được chuẩn bị trước khi ký Hiệp định Pa-ri. Kế hoạch này tập trung vào phá hoàn toàn các hoạt động liên hợp quân sự của hai phái đoàn “Bắc Việt” và “Việt Cộng” ở Trung ương đóng tại Sài Gòn.
Phá hoại làm cản trở và làm cho tê liệt các hoạt động liên hợp. Đồng thời phải đi sâu cài cắm được vài cơ sở trong hai phái đoàn, có thể cố gắng lôi kéo tác động được một vài người chạy sang hàng ngũ của chúng hoặc chạy sang nước thứ ba.
Trần Hữu Độ và Nguyễn Văn Học còn khai báo trong kế hoạch đó có dự kiến hoạt động phá hoại mạnh khi trên chiến trường bất lợi cho chúng. Kế hoạch phá hoại mạnh đó là tổ chức việc đầu độc gây tổn thất lớn về nhân mạng; đó là tổ chức bắt cóc những nhân vật quan trọng hoặc có thể bắt cả số đông làm con tin. Trường hợp đặc biệt, không loại trừ việc xóa sổ cả hai phái đoàn quân sự ở Đa-vít và làm cho trại Đa-vít trở thành bình địa.
Kế hoạch này rất trùng hợp với mệnh lệnh của Cao Văn Viên, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng quân đội chính quyền Sài Gòn ngày 28-4-1975 mà ta thu được tại Văn phòng Tổng Tham mưu quân đội chính quyền Sài Gòn sau giải phóng.
Đó là: 1. Bắn pháo và cối vào trại Đa-vít; 2. Cho xe tăng và bộ binh tràn ngập; 3. Ném bom; 4. Rải chất độc hóa học với điều kiện gió không thổi về phía thành phố. Trong mệnh lệnh của Cao Văn Viên ghi rõ là khi phát hiện có tiếng súng từ trại Đa-vít bắn sang là thực hiện ngay không cần phải xin chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu.
Thực chất của lệnh này là cho phép các đơn vị có quyền tự ý hủy diệt trại Đa-vít.
Biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Bố trí hai đoàn đại biểu quân sự cách mạng vào trại Đa-vít, kẻ thù hòng làm tê liệt các hoạt động Liên hợp quân sự của ta và khống chế, cô lập ta. Nhưng tất cả mưu đồ đó của chúng đã bị thất bại.
Hai đoàn ta hiên ngang biến trại Đa-vít thành trung tâm đấu tranh ngoại giao quân sự giữa sào huyệt địch. Chúng ta triển khai mọi hoạt động liên hợp quân sự một cách đàng hoàng, chững chạc với tư thế của người chiến thắng. Hai mươi nhăm cuộc họp cấp trưởng đoàn thời kỳ Liên hợp quân sự 4 bên, một trăm cuộc họp cấp trưởng đoàn thời kỳ 2 bên và những cuộc họp của các Tiểu ban quân sự, Tiểu ban trao trả, Tiểu ban thủ tục, Tiểu ban triển khai, Tiểu ban thay thế vũ khí, Tổ liên hợp quân sự 4 bên… đã được tiến hành.
Trong tất cả các cuộc họp đó, hai đoàn quán triệt đường lối của Đảng ta, nắm vững pháp lý của Hiệp định Pa-ri đấu tranh một cách quyết liệt, liên tục, không khoan nhượng, buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải thi hành Hiệp định Pa-ri.
Đồng thời, luôn tỉnh táo nhạy bén phát hiện những mưu đồ đen tối, những thủ đoạn xảo trá, những hành động vi phạm Hiệp định để kịp thời lên án, vạch trần những sai trái, vi phạm đó của chúng.
Đặc biệt, hai đoàn ta tập trung đấu tranh để thực hiện cho kỳ được buộc quân Mỹ và quân chư hầu phải rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 60 ngày gắn với việc ta trao trả hết tù binh Mỹ và kẻ thù cũng phải trao trả hết số nhân viên quân sự (tù binh) của ta. Việc trao trả nhân viên dân sự (tù chính trị) cũng là cuộc đấu hết sức căng thẳng liên tục buộc kẻ địch cũng phải trao trả hơn 5.000 cán bộ và cơ sở cách mạng của ta.
Từ Tổng hành dinh này, các sĩ quan của ta đi hầu hết các nơi ở miền Nam Việt Nam để kiểm tra, kiểm soát tất cả các chuyến bay rút quân Mỹ và chư hầu, tất cả các chuyến trao trả người của các bên, kiểm tra các trại giam của Mỹ - chính quyền Sài Gòn và đi cùng Ủy ban Quốc tế điều tra các vụ quân đội chính quyền Sài Gòn vi phạm ngừng bắn.
Tại trụ sở trại Đa-vít ta đã tổ chức rất nhiều cuộc họp báo. Các đồng chí trưởng, phó đoàn ta nhiều lần chủ trì họp báo như Trần Văn Trà, Hoàng Anh Tuấn, Võ Đông Giang.
Rất đông phóng viên của gần 80 hãng thông tấn báo chí, vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, báo nước ngoài có đại diện ở Sài Gòn đến dự họp báo. Cuộc họp báo nào cũng khá đông. Khi tình hình chiến sự sôi động thì các nhà báo càng đến đông hơn, có khi phải tràn ra cả vỉa hè và ngoài sân.
Có một điều đặc biệt là, kẻ thù tìm mọi cách cô lập ta ở trại Đa-vít bằng rất nhiều biện pháp kể cả những biện pháp thủ đoạn hèn hạ nhất, ti tiện nhất. Nhưng chúng không thể cô lập hoàn toàn được và trong những ngày cuối cùng của chiến tranh thì tên Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn lại bắn tin qua Đoàn Hung-ga-ri trong Ủy ban Quốc tế để xin được gặp đồng chí trưởng đoàn ta. Những tên chóp bu của chính quyền Sài Gòn trong những ngày hấp hối đã cử các loại bộ trưởng, các phụ tá đặc biệt xin được đến gặp phái đoàn ta để cầu cạnh, xin xỏ và thăm dò… về ý đồ tấn công cuối cùng của chúng ta.
Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ ta là những chiến binh vững vàng, bản lĩnh chính trị được tôi luyện, có ý chí chiến đấu và tính cảnh giác cách mạng cao. Chúng ta đã triển khai một thế trận tấn công và phòng ngừa chặt chẽ để chủ động đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù phá hoại hai đoàn ta.
Phát huy ưu thế chính trị tuyệt đối của những con người cách mạng, phát huy tư tưởng tiến công nên cho dù kẻ thù dùng bất cứ thủ đoạn gì cũng không gây được sự nao núng trong tinh thần của những con người gang thép.
Cán bộ, chiến sĩ ta nhận thức rõ: Những sự phô trương sức mạnh cùng những hành động hung hăng côn đồ của kẻ thù càng chứng tỏ là chúng ở thế yếu, ở sự kém cỏi của kẻ thất bại.
Nhiều trường hợp thực tế đã chứng minh những tên sĩ quan ngụy chủ động đến tác động tâm lý, khiêu khích, kích động lại bộc lộ hoàn toàn là sự lố bịch của nó trước cán bộ, chiến sĩ ta. Khi bị cán bộ, chiến sĩ ta tấn công đập lại, dù ở trên bàn hội nghị cấp trưởng đoàn, cấp tiểu ban và những cuộc tiếp xúc khác thì chúng đều phải nhận lấy sự thất bại cay đắng. Chúng không dám đối diện tranh luận trước những vấn đề mà chúng đưa ra khiêu khích mà thường là lảng tránh, có tên thấy trơ trẽn quá lủi thủi rút lui. Cũng có vài tên tỏ ra xửng cồ, mặt đỏ gay nói lại vài câu với lời lẽ của kẻ côn đồ chợ búa rồi bỏ đi. Ngay ở hội nghị cấp trưởng đoàn mà những tên trưởng, phó đoàn Mỹ như Út-Uốt, Uých Khâm; trưởng, phó đoàn chính quyền Sài Gòn như Dư Quốc Đống, Phan Hòa Hiệp... khi bị chúng ta dồn vào thế bí thì bản chất của kẻ tay sai xâm lược, kẻ côn đồ của những tướng Mỹ - chính quyền Sài Gòn cũng bộc lộ ra ngay. Tên Phan Hòa Hiệp còn biểu hiện côn đồ đến mức cầm gạt tàn thuốc lá định ném vào đồng chí Võ Đông Giang và buông lời láo xược mày tao...
--------
* Trận địa cách mạng kiên cường giữa sào huyệt địch (Kỳ 1)
(còn nữa)
Nhóm phóng viên Quốc phòng-An ninh