QĐND - Nhân dịp Tổng cục Chính trị tổ chức Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân do Chủ tịch nước phong tặng cho hai Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã tìm gặp các cựu chiến binh trong Ban liên lạc cựu chiến binh Ban Liên hợp quân sự bốn bên để tìm hiểu về những chiến công trên mặt trận ngoại giao quân sự của họ.
Trại Đa-vít - môi trường căng thẳng, ngột ngạt
Giờ đây, trong tâm trí Đại tá Nguyễn Văn Khả - Trưởng ban liên lạc, đồng chí Nguyễn Văn Bộ - Phó trưởng ban liên lạc, cùng các cựu chiến binh Đinh Quốc Kỳ, Đào Hoài Phúc, Phạm Văn Lãi, Trần Tuấn Anh v.v.. mỗi khi gợi lại, những ngày sống, hoạt động và đấu tranh ở Trại Đa-vít vẫn như những thước phim tư liệu.
Trại Đa-vít là trụ sở của hai đoàn đại biểu quân sự của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (Đoàn A) và của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Đoàn B) trong Ban Liên hợp quân sự bốn bên và hai bên Trung ương thời kỳ đấu tranh thi hành Hiệp định Pa-ri về Việt Nam từ 28-1-1973 đến 30-4-1975.
Trong khoảng thời gian không dài, những cán bộ, chiến sĩ tham gia hai đoàn đại biểu quân sự ấy đã sống, hoạt động và đấu tranh, biến Trại Đa-vít trở thành một trận địa cách mạng kiên cường, một biểu tượng sáng ngời của tư tưởng cách mạng tiến công và của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Trại Đa-vít vốn là một trại lính, xây dựng theo kiểu dã chiến cho đơn vị quân đội Mỹ đồn trú trong chiến tranh. Trại mang tên Đa-vít, là tên một trung sĩ Mỹ tên James.T.Davis, sĩ quan quân báo Mỹ cùng quân ngụy đi càn quét bị lực lượng vũ trang cách mạng bắn chết đầu tiên ở miền Nam Việt Nam.
Các nhà trong trại làm bằng gỗ thông, được cưa xẻ từ Mỹ theo quy cách thống nhất, kiểu nhà sàn, mái lợp phi-brô xi măng, nội thất toàn là đồ bằng sắt.
 |
Một dãy nhà trong "Trại Đa-vít” - Trụ sở của hai Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ảnh: ST. |
Khi hai đoàn quân sự của ta vào ở thì đây là một trại lính vô cùng bẩn thỉu, ô uế, đầy rẫy mùi vị của bọn lính Mỹ thất trận chán ghét chiến tranh. Đây đó trong xó nhà, gầm tủ, thùng rác là những bông băng đầy máu và mủ. Những ống tiêm hê-rô-in đã bóp hết thuốc vào mạch máu, những tập ảnh khiêu dâm, dung tục bừa bãi. Một chỗ khác có những hàng chữ nguệch ngoạc: "Đây là địa ngục, thằng Đích đã chết ở đây. Lạy chúa - Tôi sẽ lên thiên đàng vì tôi đã ở địa ngục này".
Trại lính này nằm sâu trong căn cứ quân sự, bao quanh là lớp lớp dây kẽm gai dày đặc. Vọng gác nhiều tầng nhiều lớp của quân Sài Gòn. Sân, đường trong khu trại đều bằng xi măng. Không một bóng cây. Sống và làm việc tại đây rất nóng bức. Các căn nhà lại nằm sát đường băng, máy bay lên xuống gầm rít liên tục nên rất ồn ào... Thật là một môi trường căng thẳng, ngột ngạt, khó chịu. Cán bộ, chiến sĩ hai đoàn quân sự ta vào được mấy ngày thì các hàng rào xung quanh được ken dày đặc hơn, xung quanh là hệ thống hầm mới được đào rộng và sâu từ 2 đến 3m. Mười ba ụ súng được đắp lên ngay sát hàng rào với 13 khẩu đại liên được gắn trên giá thường trực chĩa nòng súng vào khu vực trụ sở ta 24/24 giờ.
Trước cửa chính, bên kia con đường nhựa chạy dọc Trại Đa-vít là doanh trại tiểu đoàn huấn luyện quân dù của Mỹ-ngụy. Hàng chục lỗ châu mai mới được đục, có lính gác với súng chĩa sang khu vực hai đoàn quân sự ta.
Bố trí hai đoàn đại biểu quân sự Trung ương của ta vào đây, ý đồ xấu xa của Mỹ-ngụy là để cản trở các hoạt động liên hợp quân sự của ta. Chúng chủ trương giam lỏng, cô lập ta, ngăn cản tất cả mọi cuộc tiếp xúc của ta, nhất là tiếp xúc với dân. Mọi sinh hoạt ăn, ở, làm việc của ta đều ở trong khuôn viên của trại. Không ra ngoài tiếp xúc với dân, không ra ngoài mua bán, không ra đường phố, chúng sợ các vị ra ngoài sẽ "không bảo đảm an toàn". Lương thực, thực phẩm, các nhu yếu phẩm khác phải mua qua nhà thầu mà nhân viên nhà thầu là nhân viên an ninh, tình báo của ngụy quyền Sài Gòn. Đi họp liên hợp quân sự bốn bên, hai bên, đi làm việc hoặc gặp gỡ xã giao với Ủy ban Quốc tế, các sĩ quan liên lạc đi đưa công hàm v.v.. có quân cảnh, tuần cảnh hộ tống để ngăn chặn tất cả mọi sự tiếp xúc với dân, với các nhà báo… Thậm chí, đến những người làm công ở sân bay, người trong khu gia binh ở gần đó đi qua mà nhìn vào khu trụ sở của hai đoàn quân sự ta, cũng bị chúng theo dõi. Ai đó đứng lại nhìn anh em ta là chúng chửi bậy và đuổi đi ngay.
Cả hai năm, ba tháng, ba ngày, hai đoàn ta ở trong một cái trụ sở như thế đó. Không thể coi đây là một trụ sở ngoại giao mà trong Hiệp định Pa-ri đã xác định là các Ban Liên hợp quân sự và nhân viên Ban Liên hợp quân sự trong khi thi hành nhiệm vụ được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ tương đương với quyền dành cho các phái đoàn ngoại giao và nhân viên ngoại giao.
Mỹ-ngụy rắp tâm phá Hiệp định Pa-ri
Phá bỏ Hiệp định Pa-ri là chủ trương nhất quán, là ý đồ sâu xa của Mỹ-ngụy.
Phá Hiệp định Pa-ri thì một trong những điều quan trọng, là làm cho cơ quan liên hợp quân sự bị tê liệt mà tập trung là phá mọi hoạt động liên hợp quân sự của hai đoàn "Bắc Việt" và "Việt Cộng".
Hai năm, ba tháng, ba ngày (823 ngày) đấu tranh với kẻ thù để thi hành Hiệp định Pa-ri, cán bộ, chiến sĩ ta đã hiểu rất rõ, rất cụ thể những âm mưu, thủ đoạn đánh phá hai đoàn ta của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Sau giải phóng, khai thác những tên tình báo gián điệp của địch mà ta bắt được càng chứng minh đầy đủ toàn bộ kế hoạch phá hoại của chúng.
Kẻ địch sử dụng cái gọi là "sức mạnh" để đe dọa, uy hiếp hòng làm giảm sút ý chí đấu tranh của hai đoàn ta. Ngay ngày đầu tiên, Đoàn đại biểu quân sự của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và các bộ phận tiền trạm vào Sài Gòn, chúng giở chiêu bài phải làm giấy "xin nhập cảnh" mới vào thành phố Sài Gòn được. Chính quyền Sài Gòn muốn thể hiện chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa. Ta không chấp nhận, ta phản đối vì cái gọi là Việt Nam Cộng hòa chỉ là bọn tay sai Mỹ, làm gì có chủ quyền quốc gia. Cuối cùng phải bỏ cái thủ tục nhập cảnh và phải đưa đoàn ta vào Trại Đa-vít.
Cũng là ngày đầu tiên ngừng bắn có hiệu lực, ngày 28-11-1973, quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn hẹn đón Đoàn Đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Trung tướng Trần Văn Trà làm Trưởng đoàn vào Sài Gòn.
Đúng ngày, đúng giờ hẹn và đúng địa điểm hẹn đón, kẻ thù cho máy bay đến ném bom hòng tiêu diệt Đoàn Đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Đây là sự phá hoại rất trắng trợn, đê hèn và cũng là để uy hiếp ta. Nhờ sự cảnh giác nên ta không bị thiệt hại gì. Hành động ấy bị ta phản đối quyết liệt trước dư luận trong nước và quốc tế.
Trại Đa-vít, 3 giờ sáng ngày 2-2-1973, sau giờ đón Giao thừa Tết Quý Sửu, kẻ địch dùng 4 trực thăng quần thảo gầm rít, chiếu đèn pha vào trụ sở ta. Sáu xe bọc thép đến chặn trước cổng, nhiều xe tải chở đầy quân lính cầm súng, lưỡi lê tuốt trần, hùng hổ nhảy xuống bao vây trụ sở ta.
Anh em hai đoàn quân sự vẫn rất bình tĩnh. Đồng chí sĩ quan liên lạc ta ra xem có cái gì mà chúng làm náo loạn vậy. Thì ra chẳng có gì quan trọng cả. Chỉ có một lá cờ đỏ sao vàng do một đồng chí thông tin treo trước cửa nhà để mừng Đảng, mừng Xuân, mừng thắng lợi của Hiệp định Pa-ri. Quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn rất sợ sự xuất hiện của những lá cờ như vậy. Việc này có thể chỉ gặp sĩ quan liên lạc hai bên trao đổi thì cũng giải quyết được. Vì các bên đang thảo luận chưa xong về dùng cờ và giấy chứng minh đi lại. Nhưng chúng ra oai "sức mạnh" và giở thói côn đồ để uy hiếp và làm to chuyện.
Ta phản đối quyết liệt. Trưởng đoàn ta nêu rõ: "Các ngài quen dùng vũ lực để đe dọa người yếu bóng vía. Bom đạn của Mỹ nhiều thật nhưng đã bất lực rồi. Chúng tôi vào đây để nói chuyện hòa bình, các ngài đón khách kém văn hóa như vậy, nếu quân giải phóng chúng tôi ở quanh đây thôi sẽ nghĩ gì, làm gì khi họ biết rõ như vậy". Các trưởng đoàn Mỹ và chính quyền Sài Gòn tỏ vẻ ngơ ngác không biết gì việc cấp dưới họ làm. Trưởng đoàn ta khẳng định: "Chúng tôi yêu cầu những hành động khoa trương sức mạnh súng đạn cần phải chấm dứt".
Các bộ phận của ta triển khai lực lượng liên hợp quân sự ở các khu vực, các tổ làm nhiệm vụ tại các địa phương cũng bị chúng phá hoại trắng trợn. Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 9 tháng 2 năm 1973, kẻ địch sử dụng bọn côn đồ ném gạch đá uy hiếp các đồng chí ta triển khai ở Buôn Ma Thuột làm một đồng chí thiếu tá và hai đồng chí đại úy của ta bị thương. Kẻ địch tổ chức phục kích tổ liên hợp quân sự Đoàn B vào triển khai ở Bảo Lộc (Lâm Đồng) làm 4 đồng chí ta hy sinh.
Ngày 16-2-1973, một vụ khiêu khích trước khách sạn Hương Giang khu vực Huế, côn đồ ném nước bẩn vào sĩ quan ta trước Ủy ban Quốc tế. Đến ngày 25-2-1973, lại xảy ra vụ hành hung tại trụ sở đoàn ta ở khu vực 1 - Huế. Lần này, bọn côn đồ cùng bọn cảnh sát ngụy trá hình dùng xà beng đập phá cửa và ném đất đá vào nơi làm việc, gây cho 8 đồng chí của ta bị thương. Hai trưởng đoàn ta ở Trung ương đã tố cáo Mỹ và quân đội chính quyền Sài Gòn là phá việc triển khai Liên hợp quân sự ở các khu vực, các tổ địa phương và rút các đoàn ta ở khu vực 1 - Huế, khu vực 2 - Đà Nẵng về Trại Đa-vít. Những sĩ quan liên lạc của ta đi với Ủy ban Quốc tế để điều tra Mỹ và chính quyền Sài Gòn vi phạm ngừng bắn thì chúng tổ chức để phá đám gây cản trở. Vụ ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, chúng đánh đồng chí Trần Hân Ngọ bị thương nặng. Vụ ở Phật Đá - Sáu Ầu, chúng cản trở ta không đi điều tra được. Vụ ở Cai Lậy, chúng tổ chức bọn côn đồ đánh cả Ủy ban Quốc tế và sĩ quan liên lạc của ta v.v..
Trên đây chỉ là một số sự việc làm dẫn chứng cho âm mưu phá hoại Hiệp định Pa-ri của địch. Nhìn chung, việc đe dọa uy hiếp chúng sử dụng nhiều lần, ở nhiều nơi, tuy có gây cho ta những thương vong nhưng không thể làm nhụt ý chí đấu tranh kiên cường của cán bộ, chiến sĩ hai đoàn quân sự ta.
(còn nữa)
Nhóm phóng viên Quốc phòng - An ninh