Bài 2: Trở lại Ba Hòn

QĐND - Hành trình đi quy tập hài cốt đồng đội của các nữ TNXP trên tuyến lửa 1C bắt đầu vào năm 1997. Năm đó, các cựu TNXP được tụ họp nhân dịp khánh thành Tượng đài TNXP đường 1C ở Kiên Giang. Tổ 3 người, Minh Tâm, Tuyết Thu và Út Mãnh hết sức vui mừng, gặp lại nhiều đồng đội của mình. Nhớ những đồng đội thân yêu đã vĩnh viễn ra đi, chị và các bạn hẹn nhau cùng đi một chuyến, tìm về góc núi, ven rừng; nơi đồng đội mình đã từng nằm lại trong những ngày chiến tranh ác liệt năm xưa.

Và những trang nhật ký đi tìm đồng đội của chị Lâm Thị Minh Tâm bắt đầu từ đây. Chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc nguyên văn những trang nhật ký xúc động này.

14 giờ ngày 2-8-1997

Đúng hẹn, tôi, Thu, Phượng, Thông cùng nhau lên đường.

Ngồi trên chuyến xe đò bon bon về thị xã Rạch Giá trong mưa bão, sao lòng tôi cảm thấy nóng ran, mong cho đến nơi thật nhanh để được nghe kế hoạch của cuộc hành trình.

Đi ngay đợt mưa bão, chắc sẽ rất khó tìm. Song chúng tôi đều nhất quyết ra đi, vì cái lạnh hôm nay đâu bằng cái lạnh của đồng đội mình hơn hai mươi năm qua vẫn còn nằm giữa rừng núi mênh mông, hiu quạnh.

Đến thị xã Rạch Giá hơn 5 giờ chiều, các anh đón chúng tôi tại khách sạn Thanh Niên. Mọi người đã đến đúng hẹn. Hồng Thắm ở TP Hồ Chí Minh cũng đã đến. Cần Thơ năm người, mới có bốn, còn thiếu chị Tám Điền ở Vị Thanh. Chị điện thoại đến, hẹn có mặt trước 7 giờ sáng 3-8.

Hơn 7 giờ sáng, ngày 3-8-1997

Chúng tôi tập trung tại Tỉnh đoàn Kiên Giang chờ chị Tám Điền đến là xuất phát. Rất nhiều người ủng hộ chúng tôi trong chuyến đi này, anh Thống, Bí thư Tỉnh đoàn Kiên Giang, anh Hà, Đài Truyền hình Kiên Giang, anh Giang, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Kiên Giang. Tuy các anh không cùng đơn vị, nhưng đã cùng kề vai, sát cánh với chúng tôi trong những ngày chiến đấu oanh liệt trên đất Ba Hòn năm ấy.

Khu di tích Hòn Đất. Ảnh minh họa/internet.

Kế hoạch đầu tiên ở phía Hòn Đất là tìm nữ đồng chí Sáu Bé, bị biệt kích bắn gần mé biển vùng Hòn Đất. Kế đó, tìm về những cửa hang nơi đơn vị chiến đấu với địch, bị chúng bao vây hơn 5 tháng ở cả Hòn Đất, Hòn Me. Chị Tám Hoa nằm lại nơi đây.

Hơn 9 giờ sáng, chúng tôi đến xã Bình Sơn, huyện Hòn Đất. Các anh Hà, Giang vào báo cáo với xã mục đích của đoàn đi. Được xã nhiệt tình giúp đỡ và cử một cán bộ phụ trách thương binh - xã hội, cho một vỏ máy cùng đi với chúng tôi.

Đã hơn hai mươi năm rồi, cảnh vật hoàn toàn thay đổi, không còn một dấu vết gì của ngày ấy cả. Rừng cây mấm, rá năm nào, thay vào đó là những rẫy bí xanh um, đang mùa nở hoa vàng rực. Muốn tìm lại, nhưng nơi ấy thật khó quá! Chỉ còn cách đi tìm những người sống trước đây, nhờ họ chỉ dẫn chúng tôi.

Xuồng máy đi mấy giờ đồng hồ, hết kinh này đến rạch khác, vẫn chưa tìm được.

Gần 12 giờ trưa, chúng tôi để bớt lại một vài người sức khỏe kém, ở tạm nhà dân, mượn một xuồng máy nhỏ tiếp tục đi. Lúc này chỉ còn có anh Giang, Hà, Thống, chị Tám Điền và tôi.

Đi đến một con rạch nữa, mưa cũng đang trĩu hạt. Chúng tôi mặc áo mưa lên hỏi thăm một nhà dân. Một em nhỏ nhanh lẹ chạy ra chỉ chúng tôi:

- Kìa! Ngang con rạch có gốc me lớn lắm. Hồi mới về ở đây, tối, ai đi qua lại ngang gốc me này cũng đều thấy bóng người con gái mặc đồ đen, còn rất trẻ…

Tuy không tin vào mộng mị, nhưng những điều em nhỏ kể sao trùng hợp quá, tôi mừng thầm là mình tìm đúng nơi rồi. Nghe xong, mấy anh em liền vượt qua chiếc cầu khỉ bắc ngang con rạch nhỏ, đến gốc me. Sau khi hỏi thăm lai lịch của gốc me, tôi hỏi chị chủ nhà:

- Chị ơi! Gần đây có hố bom nào lớn không?

- Có, hố bom lớn lắm ở ngoài kia. Phía trước có hàng dừa là con mương lạn ngày xưa…

Mừng quá, mấy anh em lội ra ngay. Nhìn hố bom vẫn còn nguyên vẹn, nước vẫn trong veo như ngày nào. Lặng nhìn cảnh vật hôm nay, những kỷ niệm ngày nào hiện về trong tôi…

Hôm ấy, vào lúc 10 giờ ngày 12 tháng 4 năm 1971, mấy anh em đang nghỉ trưa, biệt kích vào nổ súng, các anh kịp thời chiến đấu. Khi giặc ồ ạt tràn qua, tôi và Sáu Bé vừa chạy ngang qua hố bom này thì Bé bị trúng đạn, ngã ngửa trên mặt nước hố bom. Tôi cứ ngỡ nó té, liền đứng lại gọi: Bé ơi! Bé! Thấy nó vẫn nằm yên, máu vọt ra đỏ cả một vùng. Tôi biết Bé đã hy sinh. Trên đầu "cán gáo", trực thăng vũ trang, ngoài biển pháo hạm bắn lên, dưới đất thì bộ binh, không còn đường thoát, mấy anh em chỉ còn kịp chém vè (chạy - PV) vào một đám rán khô, rút chốt lựu đạn chờ chúng đến để cùng "chia". Bọn này cũng nhát gan, đánh vào xong, rút ra ngay, không dám lùng sục nên mấy anh em hụt chết.

Tan giặc trở về, các anh vớt Bé lên, bộ quần áo đen mặc trong mình, ướt đẫm. Tìm được miếng cao su che tăng, bứt dây rừng bó Bé lại, đem đến chôn cạnh gốc me này. Khi chôn xong mấy anh em quay về đơn vị ở Hòn Đất. Đi mới hơn trăm mét, pháo hạm bắn lên làm bay mất nấm mộ, các anh phải ở lại đắp cho xong mới yên lòng đi tiếp. Từ ấy đến nay tôi mới có dịp trở lại.

Những đặc điểm cần tìm đã có đủ rồi, nhưng chưa đào tìm được vì nước còn cao quá. Chúng tôi đốt ít nén nhang, đem bánh ra cúng để ấm lòng đồng đội trong một chiều mưa bão và hứa với vong linh Bé rằng một ngày không xa, chúng tôi sẽ trở lại đưa Bé về nghĩa trang yên nghỉ và báo cho gia đình biết để viếng thăm. Chúng tôi trở về xã Bình Sơn.

Cơm nước xong hơn 4 giờ chiều, chúng tôi tranh thủ leo vào hang Hòn Me. Mưa liên tục, đất đá trơn trượt, anh Hà, Giang vẫn hăng hái đốt đuốc dẫn chúng tôi lần dò tìm tới những cửa hang, nơi đơn vị các anh, đơn vị chúng tôi chiến đấu ngày nào… Dù thời gian cứ trôi theo năm tháng, tôi vẫn nhớ như in… Đó là những giờ phút cuối cùng, giặc đã vây kín các cửa hang, gọi ta ra hàng. Đơn vị chúng tôi cùng đơn vị các anh phải chiến đấu suốt ngày đêm, giành với địch từng cửa hang, hốc đá, để bảo vệ cho cả tiểu đoàn tân binh miền Bắc mới vào chi viện cho miền Tây. Chỉ còn 25 phút nữa, được lệnh khẩn rút ra khỏi Hòn, Ban chỉ huy Đại đội chúng tôi đang hội ý bàn kế hoạch rút cho an toàn, bỗng nghe một tiếng nổ chát tai, đất đá đổ rào rào. Chúng tôi chạy tới, thì ra, một trái M79 địch bắn lọt vào cửa hang. Hiếu và Tám Hoa bảo vệ nơi ấy bị thương hết. Tám Hoa bị nặng quá, ít phút sau đó chị đã trút hơi thở cuối cùng.

Trong giờ phút khẩn trương quyết liệt này, chỉ còn kịp bó chị lại, để tại nơi ở hằng ngày. Tất cả đơn vị từng người, từng người đi qua cúi đầu chào vĩnh biệt để chị ra đi. Nỗi đau này, kỷ niệm này làm sao xóa nhòa trong tâm trí của chúng tôi. Giờ chúng tôi quyết tìm đến cửa hang, nơi để thi hài của chị thì được biết sau đó địa phương đã đưa ra nghĩa trang Hòn Đất rồi. Chúng tôi cố tìm thăm mộ và khắc tên cho chị.

Gần 6 giờ tối, không còn qua Hòn Đất kịp, chúng tôi tranh thủ đến viếng mộ chị Sứ, người con gái anh hùng trên đất Ba Hòn. Nơi đây, lúc đơn vị chiến đấu là điểm pháo của địch từ Hòn Sóc bắn qua. Xung quanh phần mộ ngày nào cũng bom cày, đạn xới. Hôm nay, ngôi mộ của chị đã được xây dựng khá khang trang. Trời mưa ẩm ướt, đốt cháy được bó nhang để viếng chị thật khó khăn.

Hết một ngày tìm kiếm, đoàn chúng tôi trở về thị xã Kiên Giang. Trên đường qua nghĩa trang Hòn Đất, dù trời đã tối, chúng tôi cũng phải dừng lại, đi tìm người quản lý để biết mộ chị Tám Hoa. Chẳng may người ấy mới tiếp nhận nên không rõ, đành phải nhờ anh Hà, Giang tìm giùm.

Xong nghĩa vụ phía Hòn Đất, chia tay với các anh ở Kiên Giang, em Thông có việc phải quay về, còn lại sáu anh em: Bảy Phi, Tám Điền, Thắm, Thu, Phượng và tôi đi về Hà Tiên - nơi chiến trường đầy gian lao và ác liệt, nhiều kỷ niệm nhất, cũng là nơi nhiều đồng đội tôi đã ngã xuống…

Sáng hôm sau, 4 tháng 8 năm 1997

Xe các anh Đài Truyền hình Kiên Giang đưa chúng tôi về Sư đoàn 4, trong gió mưa tầm tã…

Hơn 10 giờ sáng, đến Ban chỉ huy sư đoàn, anh Năm Núi, Sư phó (Phó sư đoàn trưởng - PV) tiếp chúng tôi. Khi nghe nói mục đích của đoàn đi, anh nói vui: "Đúng nguyên tắc, có giấy giới thiệu hẳn hoi chúng tôi mới tiếp các anh chị, nhưng trước tấm lòng cao quý của anh chị ở thời buổi này, hơn nữa, tìm đồng đội cũng là trách nhiệm chung của mọi người, tôi hứa sẽ hỗ trợ các anh chị đến cùng". Anh cũng tâm sự với chúng tôi, ngày xưa các anh đã từng kề vai sát cánh với thanh niên xung phong. Các anh chị còn gian khổ hy sinh hơn chúng tôi, nhiều khi chuẩn bị cho trận đánh, các anh chị phải mang vác đạn pháo đến trước. Khi xong trận phải tải thương và thu dọn chiến trường…

Cơm nước xong trời đã xế chiều, mưa vẫn không ngớt. Các anh cho xe đưa chúng tôi đến vàm kinh Chiến Thắng. Nơi này vào năm 1969, đơn vị tôi đưa quân về miền Tây, lúc trở về bị biệt kích gài mìn dưới sông và không kích ở trên đầu doi Tám Ngàn. Khi đoàn ra mìn nổ, biệt kích Mỹ đi pho-ca bao vây 8 đồng đội của tôi chìm xuống dòng sông này, 5 người không thấy thi thể, còn 3 người trôi ra "ấp chiến lược" Vàm Rầy, dân lén vớt lên chôn cất. Chúng tôi tìm đến những người đã an táng các anh chị ngày ấy, họ đều đi vắng, phải ra tới mé biển Vàm Rầy. Khi gặp chúng tôi, nhờ diễn tả lại hình dáng của từng người, tôi biết ngay là chị Ba Cam và Út Mười Lăm. Còn một nam mặc đồ bộ đội, tôi không nhớ rõ là người nào vì quá lâu rồi.

Hỏi thăm xong, chúng tôi nhờ người ấy dẫn đến những nơi vớt từng người và chỗ an táng, thì được biết, ở xã đã đưa các anh, chị về nghĩa trang Hòn Đất cùng đồng chí xã đội phó hy sinh. Chúng tôi đã tìm đến mộ và nhờ những người chăm sóc nghĩa trang khắc tên cho các anh, chị. Còn 5 người không biết trôi dạt đến nơi nào không ai nhìn thấy. Ôi đau xót quá!

-------

Bài 1: Nơi sắt thép cũng bị nung chảy

Bài 3: Điều không thể mất

Hồng Hải